- 1. Bài Văn Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài ‘Tràng Giang’ Số 1
- 2. Phân tích hai khổ thơ đầu trong bài ‘Tràng Giang’ số 3
- 3. Phân tích hai khổ thơ đầu trong bài ‘Tràng Giang’ số 2
- Phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 5
- 5. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 4
- 6. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 7
- 7. Phân tích hai khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 6
- 8. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 9
- 9. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 8
- 10. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 10
1. Bài Văn Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài ‘Tràng Giang’ Số 1
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Tác giả và tác phẩm (mới 2023) – Môn Ngữ văn lớp 9
- Kỹ sư môi trường là gì? Nhiệm vụ và yêu cầu công việc
- Xu hướng chia sẻ công việc “Job Sharing” đang được quan tâm trở lại
- 3 cách cố định tiêu đề trong excel đơn giản và nhanh chóng
- Hướng dẫn cách chuyển từ excel sang word đơn giản và dễ hiểu
“Trên cánh đồng văn chương màu mỡ, nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn trong không khí để tìm dư vị của sự sáng tạo”. Huy Cận, tìm về quê hương trên dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, nguồn cảm hứng khơi nguồn từ đó và thể hiện trong “Tràng Giang”.
“Thơ là tiếng nói của tình cảm và cảm xúc. Nếu không có cảm xúc, nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay, và ngôn từ chỉ là xác chữ nằm thẳng đơ trên trang giấy”. Thi sĩ phải có tâm hồn giàu rung cảm, cảm thông sâu sắc với cuộc sống, để cảm xúc mãnh liệt dạt dào. Huy Cận chuyển hóa những rung cảm đó thành thơ, và ‘Tràng Giang’ là tác phẩm xuất sắc thể hiện chất thơ của ông.
Bạn đang xem: Top 10 Bài Văn Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài ‘Tràng Giang’ của Huy Cận (Lớp 11) Xuất Sắc Nhất
Trong không gian văn hóa đổi mới, Huy Cận vẫn giữ hoài cổ với chất Đường thi. ‘Tràng Giang’ là bài thơ xuất sắc được học trong chương trình ngữ văn 11, thể hiện rõ chất thơ của Huy Cận.
Mở đầu là cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, tĩnh lặng nhưng buồn đến tê tái. Những đoạn thơ đầu miêu tả hình ảnh sóng gợn, con thuyền trôi mái nước, thuyền về nước lại sầu trăm ngả. Cảnh sông Hồng rộng lớn, bên bờ là những cồn nhỏ, gió nhẹ thổi qua, tạo nên không khí hiu hắt. Hình ảnh củi khô lạc mấy dòng, lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, và tiếng làng xa vãn chợ chiều tạo nên bức tranh buồn lạc lõng.
Huy Cận lấy động tả tĩnh để miêu tả nỗi buồn sâu lắng của thi sĩ, nhưng cũng là sự lạc lõng nhỏ bé giữa bến đò và vạt nắng trên bầu trời. ‘Tràng Giang’ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, mang đậm phong cách của Huy Cận và là dấu son chói lọi trong thơ ca Việt Nam.
Phân tích hai khổ thơ đầu trong bài ‘Tràng Giang’ số 1
2. Phân tích hai khổ thơ đầu trong bài ‘Tràng Giang’ số 3
Mỗi nhà thơ trong phong trào thơ Mới đều tìm cho mình bộ y phục tối tân riêng biệt, một phong cách, một giọng điệu không ai giống. Huy Cận, bằng nỗi buồn vô hạn về loài người và vũ trụ, đã rải đều những chút buồn lẻ tẻ để xây dựng những câu thơ âu sầu, mơ hồ trong bài ‘Tràng Giang’. Đặc biệt, ở hai khổ đầu, bức tranh thiên nhiên hùng vĩ nhưng buồn bã, tâm trạng cô đơn, bế tắc đã đóng góp vào việc tạo nên sắc thái độc đáo, rất riêng của Huy Cận.
Có thể nói, từng khổ thơ trong Tràng Giang đều như những tác phẩm độc lập, mỗi khổ đều mang hương vị kết hợp cổ điển và hiện đại, đều chứa đựng những điểm độc đáo hấp dẫn. Khổ đầu:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh của ‘Tràng Giang’ hình thành một dòng sông dài, rộng và hùng vĩ, với những đợt sóng bạch tạng trắng, là biểu tượng cho vẻ hùng vĩ của thiên nhiên, sông nước. Nhưng những đợt sóng kia liên tục kéo dài, nối tiếp nhau trong những cơn buồn ‘điệp điệp’. Một lần nữa, hình ảnh của con thuyền xuất hiện, quen thuộc như trong nhiều bài thơ:
“Cô chu nhất hệ cố viên tâm.”
(Con thuyền buộc chặt tình thân quê hương).
(Thu hứng-Đỗ Phủ).
Con thuyền trên sông đưa tiễn người tri kỉ trong thơ của Lí Bạch ở bài ‘Tống mạnh hạo nhiên chi Quảng lăng”:
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.”
Hình ảnh con thuyền đã trở thành một tượng trưng thân thuộc, cổ điển thường mang lại cảm giác cô đơn. Con thuyền trôi lạc lõng, vô định trên sóng nước, tạo nên sự cô đơn và vô định của cuộc sống con người. Thuyền và nước gắn bó, nhưng ở đây nước sông và con thuyền lại phân chia, thuyền đi xuôi mái nhưng song song, tạo nên sự bơ vơ, lạc lõng của cuộc sống trôi nổi. Con thuyền và nước sông, thường gắn bó, nhưng ở đây chúng xa cách, làm cho ‘thuyền về nước lại sầu trăm ngả’, để giải tỏa buồn bã cho dòng sông. Có lẽ nỗi buồn của tâm hồn người đã làm cho cảnh vật trở nên buồn bã. Câu cuối cùng của khổ thơ là một hình ảnh đặc sắc về nguồn sống, đồng thời là biểu tượng cho tâm hồn thơ Mới, là sự sáng tạo của Huy Cận để thấy rõ ý thức ‘tập cổ mà không nghĩ cổ’:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh của cành củi khô đã được biến đổi thông qua tài năng và sự tinh tế trong lựa chọn và diễn đạt của Huy Cận. Trong khi thơ ca trung đại thường chọn những hình ảnh tinh tế và sang trọng, thì thơ của Huy Cận lại chọn những yếu tố sống động, bình dị của đời sống hàng ngày và làm cho những vật vô tri trở nên có linh hồn. Cành củi khô biểu tượng cho sự sống héo úa, khô cằn và mất đi tính sống dần dần, hay chính là sự chết chóc vì cành củi khô không còn chất sống nữa. Nhưng điều đau đớn hơn là cành củi khô ấy lại ‘lạc mấy dòng’, thể hiện sự cô đơn, lạc lõng và bế tắc của cuộc sống con người giữa xô bồ, nhộn nhịp này chăng? Điều đó là ẩn dụ cho số mệnh và số phận lênh đênh, lạc lõng bơ vơ giữa thế giới xô bồ và năng động này. Qua đó, một cách tinh tế, Huy Cận đã biểu đạt niềm đau và xót thương của mình. Đến với khổ thơ thứ hai, bức tranh tiếp tục được vẽ với những nét tiêu điều, thê lương:
“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
Hình ảnh của cồn cỏ lơ thơ, gió đìu hiu mang đến một cái nhìn thêm về sự tiêu điều, đau buồn của cảnh vật. Dù có một hình ảnh về sự sống, nhưng nó lại hiển nhiên, ít ỏi. Chợ là biểu tượng của cuộc sống năng động, nhộn nhịp và kinh tế của một vùng, nhưng ở đây chợ đã mất đi âm thanh huyên náo từ lâu, sự sống đã đi vào trạng thái tĩnh lặng, không còn sự nhộn nhịp như trước. Bức tranh tiếp tục định hình cho phong cảnh, không gian trở nên hùng vĩ hơn. Nắng chiếu xuống đáy sông và hình ảnh trời đưa lên phía cao, làm cho mặt phẳng không gian như bị cắt đứt, bị nén chặt và chia cắt, tạo nên cảm giác ngột ngạt, khó chịu cho người đọc. Sông dài ấy, nhưng bến cô liêu, lại một lần nữa, sự cô đơn hiện hình đầy những nỗi buồn thấm sau ba chiều của không gian, thấm đẫm trong tâm hồn người đọc.
Thực hiện xong 2 khổ thơ đầu, với hình ảnh cổ điển quen thuộc và phong cách hiện đại là ý thức cá nhân trong thơ Mới. Nỗi buồn không còn liên quan đến các quan niệm và chuẩn mực đạo đức, trung hiếu, tiết nghĩa như trong thơ trung đại, mà thay vào đó là nỗi buồn của cá nhân cảm nhận sự cô đơn, bế tắc và lạc lõng trước hiện thực. Thiên nhiên vẫn mênh mông, hùng vĩ nhưng lại cô đơn và tiêu điều, hình ảnh hoang xơ. Với tình yêu của mình đối với thiên nhiên và tâm hồn của người làm thơ Mới, với những đặc điểm riêng, Huy Cận đã tạo ra những câu thơ vô cùng tinh tế, thấm đượm cảm xúc buồn bã, thê lương.
Phân tích hai khổ thơ đầu trong bài ‘Tràng Giang’ số 3
3. Phân tích hai khổ thơ đầu trong bài ‘Tràng Giang’ số 2
Huy Cận, nhà thơ tài năng trong trào lưu Thơ Mới (1930-1945), đặt ra những tác phẩm kết hợp tinh tế giữa hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tạo của ông ghi dấu sự chuyển biến lớn liên quan đến thời kỳ trước và sau cách mạng tháng Tám. Bài thơ ‘Tràng giang’ viết trong giai đoạn trước cách mạng, mang theo nó nỗi buồn sâu sắc, bóng bế tắc giữa cuộc sống nổi trôi lênh đênh. Bài thơ để lại trong lòng độc giả những cảm xúc khó tả.
Từ đề bài thơ, tác giả đã tổng quan tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của tác phẩm. Hai từ ‘Tràng giang’ gợi lên hình ảnh một dòng sông dài, bao la và rộng lớn. Người ta không thể không liên tưởng đến những bài thơ Đường của Trung Quốc. Nhưng chính Tràng giang này cũng kể lên câu chuyện về những thân phận lênh đênh, nhỏ bé sống trên dòng sông vô tận và tâm tư u uất như thế.
Lời đề ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài’ tóm gọn chủ đề của bài thơ: nỗi niềm không biết chia sẻ với ai khi đứng giữa vẻ đẹp toàn cảnh của trời và đất. Cả bài thơ toát lên vẻ đẹp kết hợp giữa hiện đại và cổ điển, đặc trưng trong thơ của Huy Cận. Đầu bài thơ đã khiến độc giả nghĩ đến một con sông đong đưa nhiều nỗi buồn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Với những từ ngữ như ‘buồn’, ‘xuôi mái’, ‘sầu trăm ngả’, ‘lạc mấy dòng’, cùng những từ như ‘điệp điệp’, ‘song song’, tạo nên bức tranh toàn diện về nỗi buồn sâu sắc và vô tận của tác giả trong thời kỳ bất công như thế này.
Ngay từ khổ thơ đầu tiên, nét cổ điển hòa quyện với hiện đại. Tác giả lựa chọn hình ảnh con thuyền xuôi mái và đặc biệt là ‘củi khô’ trôi một mình trên dòng nước rộng lớn, vô tận, vô hạn. Câu thơ thật sự gợi lên một con sông dài, một con sông mang theo nó vẻ đẹp u buồn, trầm tĩnh làm đau đớn và thê lương.
Thuyền và nước thường không thể tách rời, nhưng trong câu thơ, tác giả viết ‘thuyền về nước lại sầu trăm ngả’, liệu có điều gì đó uẩn khúc, hay là sự chia lìa không báo trước, tạo cảm giác xót xa và cô đơn. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mông nhưng không có điểm dừng. Điểm nhấn của khổ thơ là ở câu thơ cuối với hình ảnh ‘củi’ làm nổi bật sự đơn chiếc, nhỏ bé, mảnh mai, trôi dạt khắp nơi. Câu thơ này nói lên tâm trạng của những nhà thơ mới trong thời kỳ bộn bề, chật chội như thế này. Khổ thơ thứ hai lại làm tăng lên nỗi hiu quạnh:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Hai câu thơ đầu tiên mang đến hình ảnh buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Có lẽ đó là quê hương của tác giả. Hình ảnh ‘cồn nhỏ’ nghe rõ tiếng gió đìu hiu ở bờ dòng sông, khoác lên mình nỗi buồn mặc định.
Thậm chí tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở xa cũng không thể nghe thấy, có lẽ phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như vậy. Câu hỏi về ‘đâu’ đặt ra nhiều nỗi niềm, liệu có phải tác giả đang tự hỏi bản thân hay không. Từ ‘đâu’ chất chứa sự thê lương và bất lực. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có bóng người, không có âm thanh thực sự chua xót.
Ở khổ thơ thứ ba, tác giả cố gắng tìm sự ấm áp trong thiên nhiên hiu quạnh nhưng dường như thiên nhiên không phản ứng như lòng người mong đợi:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thương nhớ
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Ở khổ thơ thứ ba, độc giả có thể nhận thấy sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên. Không còn nỗi buồn và yên bình đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ ‘dạt’ mô tả một sự chuyển biến linh hoạt của vạn vật. Tuy nhiên, từ ‘dạt’ lại liên quan đến hình ảnh ‘bèo’ khiến tác giả thất vọng vì ‘bèo’ thường trôi nổi một cách vô định, không có hướng, không biết về đâu, không biết kéo dài được bao lâu. Mặt nước mênh mông không có một chiếc đò. Tác giả chỉ đang đợi chờ một chiếc đò để chứng kiến sự sống, nhưng dường như điều này là không thể. Mong đợi được trả lại là sự im lặng của vạn vật xung quanh qua từ ngữ ‘lặng lẽ’, làm đau lòng và đìu hiu. Khổ thơ cuối cùng đẩy bút pháp của tác giả lên đỉnh cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tư tưởng và tâm trạng của nhà thơ được truyền đạt qua bài thơ này. Hình ảnh ‘mây cao’ và ‘núi bạc’ giống như trong thơ Đường, tăng thêm nét buồn, thêm nỗi đau và nỗi buồn. Hình ảnh ‘chim nghiêng cánh’ và ‘bóng chiều sa’ là sự hòa quyện hóa điều vô hình của tác giả. Bóng chiều làm thế nào có thể nhìn thấy được, nhưng thông qua ngòi bút và con mắt của tác giả, người đọc cảm nhận được trời chiều dần buông lỏng.
Bài thơ này là nơi tác giả tỏ ra nhớ nhà, nhớ quê hương, không biết gửi đi đâu, chỉ biết đong đầy trong trái tim. Câu thơ của Huy Cận làm cho chúng ta liên tưởng đến bài thơ của Thôi Hiệu:
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Là sóng của sông hay là sóng trong lòng người
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 2
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 5
Thơ là bản hòa nhạc tuyệt vời của linh hồn, ghi chép hết nhịp thở của trái tim. Thơ không chỉ là ngôn ngữ của cảm xúc, mà còn là ngôn ngữ của niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn và tuyệt vọng. Những tâm trạng khó diễn đạt bằng từ ngữ thông thường, thơ là ngôn ngữ giúp chúng ta hiểu rõ những lo lắng, suy tư về biến đổi của cuộc sống, với những cảm xúc tràn ngập khi nhìn thấy bản thân nhỏ bé giữa vũ trụ bao la. Huy Cận đã sáng tác tác phẩm “Tràng Giang” và qua hai khổ thơ đầu, ta cảm nhận rõ điều đó.
Xem thêm : Cập nhật mã FIFA Mobile Nexon mới nhất vào tháng 7/2024, hướng dẫn cách nhập giftcode
Không sai khi nói rằng, với những người làm thơ, thơ là công cụ biểu đạt tuyệt vời nhất cho những cảm xúc chân thành, mãnh liệt. Càng mãnh liệt cảm xúc, thơ càng có sức ám ảnh trái tim độc giả.
Huy Cận, với sứ mệnh cao cả của một nhà thơ, đã tạo nên một phong cách độc đáo, khác biệt so với những đồng thời. “Tràng Giang” là minh chứng rõ nhất cho phong cách nghệ thuật độc đáo của ông. Tác phẩm được tạo nên từ cảm xúc của Huy Cận trong một chiều thu năm 1939, đứng bên bờ Nam Bến Chèm. Trước mặt là dòng sông Hồng hùng vĩ, những cảm xúc thời đại tràn về khi thi sĩ cảm nhận sự nhỏ bé của bản thân trước vũ trụ lớn. Điều này được thể hiện rõ nhất qua hai khổ thơ đầu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.
Hai khổ thơ như bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đồng thời ẩn chứa trái tim đa sầu, đa cảm của tác giả với nhiều cảm xúc không nói thành lời. Mở đầu bài thơ, Huy Cận đã sử dụng các hình ảnh từ thơ Đường như “thuyền, sóng”. Bức tranh đẹp nhưng buồn bã, nói về sự buồn bã của thiên nhiên và con người. Nỗi buồn được diễn đạt qua câu thơ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song”.
Từ “điệp điệp” tinh tế miêu tả hình tượng của sóng nước. Những con sóng đó như lớp lớp, vô tận. Ở đây, nhà thơ mô tả sự buồn bã của thiên nhiên và con người. Có vẻ như nỗi buồn của tâm hồn đã lan tỏa ra cảnh vật, khiến nỗi buồn ấy trở nên đau đớn và u uất. Thuyền và nước thường đi kèm nhau, nhưng trong tác phẩm này, chúng trở nên cô đơn, lạc lõng. Thuyền là biểu tượng của sự sống, nhưng ở đây, thuyền trở thành hình ảnh của sự hiện diện thoáng qua một khoảnh khắc, “con thuyền xuôi mái” là hình ảnh thực tế nhưng đầy ý nghĩa. Nó kêu gọi hình ảnh của những người trôi nổi, lạc lõng không biết nơi nào. Huy Cận có lẽ đã trải qua những cảm xúc đó khi viết:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Con thuyền và cành củi khô là hai hình ảnh táo bạo, đang đi xuôi trên dòng Tràng Giang. Trong thơ của mình, Huy Cận đã nhiều lần nhấn mạnh nỗi buồn của thời đại, và ở đây, ông lại đề cập đến nỗi buồn của sự lạc lõng, nỗi buồn của hàng trăm ngả. Chỉ với ba từ và một cành củi khô, ông đã miêu tả hình ảnh của những con người nhỏ bé trong xã hội cũ, và với cách làm này, Huy Cận đã làm mới bức tranh thơ với hình ảnh của củi khô.
Cành củi khô có lẽ là biểu tượng của sự cô đơn và lạc lõng trong tâm hồn tác giả. Khi chứng kiến cành củi khô ấy, tác giả đã đối mặt với những hạn chế lớn lao của đất trời, và từ đó, nỗi buồn nhân thế đã trở thành nỗi buồn chung của một thế hệ thanh niên yêu nước. Trong đoạn thơ này, cảnh vật được mô tả qua những cồn cỏ, sự hiu quạnh của gió và sự vắng vẻ của cảnh vật:
“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.
Chữ “lơ thơ” miêu tả sự thưa thớt, rời rạc của những hòn đất nhỏ trên dòng Tràng Giang. Trên những cồn đất đó là hình ảnh của cây lau, cây sậy, và khi gió thổi qua, chúng trở nên hiu quạnh và tiêu điều.
Câu thơ chìm sâu vào tâm hồn tác giả, khiến ông cảm thấy bất lực và muốn tìm kiếm sự ấm áp của con người. “Đâu tiếng làng xa” ở đâu không xác định, âm thanh đó nghe như mơ hồ, nhưng lại là âm thanh của chợ, làm cho không gian trở nên vắng lặng. Mặc dù cũng viết về chợ như Nguyễn Trãi, nhưng trong thơ của Huy Cận, hình ảnh của chợ trở nên tĩnh lặng, vắng vẻ hơn, thể hiện mong muốn giao hòa, giao cảm của con người, ngay cả khi chỉ là qua thính giác.
Có ý kiến cho rằng dòng Tràng Giang là một dòng buồn lẻ loi. Điều này đúng, và hai câu thơ tiếp theo làm tăng thêm nỗi buồn:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.
Ở đây, nhà thơ đã tạo ra một không gian ba chiều rộng lớn với chiều cao, chiều dài và chiều rộng. Ông đứng ở bến cô liêu, nơi giao thoa của vũ trụ, giữa không gian lớn và bản thân nhỏ bé. Ánh nắng chiếu xuống mặt nước phản chiếu lên bầu trời, tạo ra không gian rộng lớn nhưng làm tăng sự tuyệt vọng. “Sâu chót vót” không chỉ mô tả độ sâu mà còn mô tả độ cao, tạo ra cảm giác ám ảnh và làm nhỏ bé hơn trước không gian.
Cuộc sống là nguồn cảm hứng, là đối tượng nghệ thuật và là điểm kết thúc của thơ. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực và tiếp tục lan tỏa trong trái tim của độc giả. Đối diện với Tràng Giang của Huy Cận, ta cảm nhận được những niềm niềm, tiếng thở dài của thi nhân trước tình hình đất nước chìm trong chiến tranh, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giàu hình ảnh. Tất cả tạo nên thành công cho Tràng Giang của Huy Cận.
Bài thơ kết thúc, nhưng mỗi khi đọc nó, ta vẫn cảm nhận được nỗi buồn nhân thế của tác giả giữa thiên nhiên hùng vĩ. Phân tích hai khổ đầu của bài thơ Tràng Giang, chúng ta hiểu tại sao dù đã lâu, nhưng Tràng Giang vẫn tỏa sáng trong lòng những người yêu thơ qua nhiều thế hệ.
Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 5
5. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 4
Huy Cận là một trong những tác giả tiêu biểu của phong trào thơ mới, kết hợp chất cổ điển và triết lý suy tưởng. Bài thơ ‘Tràng giang’ chạm đến nỗi sầu của cái tôi trước vẻ mênh mông, hiu quạnh của thiên nhiên, lấy lòng đối với quê hương và đất nước:
‘Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng’
Khổ thơ này, mang đến đổi mới nghệ thuật, vừa giữ được vẻ đẹp cổ điển, vừa linh hoạt, tránh khỏi sự khuôn sáo, cứng nhắc thường thấy trong thơ Đường. Hình ảnh bèo trôi dạt trên sông kết hợp với cành củi khô, tượng trưng cho sự trôi dạt và lạc lõng của những kiếp người nhỏ bé trong cuộc đời. Từ ‘không’ nhấn mạnh sự vô vọng của sự gắn kết, thiếu đò ngang dọc và cây cầu nối bờ bến. Tất cả làm tăng thêm sự mênh mông lặng lẽ của cảnh vật và cuộc sống.
Trong những năm 30 của thế kỷ trước, câu thơ này mang đến điều mới mẻ, với hình ảnh giản dị ‘củi một cành khô’, không giống những hình ảnh cao sang thường thấy. Đây là một ‘cuộc cách mạng trong thơ’ (Hoài Thanh). Câu thơ thứ hai, cuối cùng trong bài thơ, hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại, được đánh giá là đặc sắc nhất:
‘Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.’
Ấn tượng thị giác của buổi chợ chiều đưa đến từ xa:
‘Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều’
Đoàn Văn Cừ miêu tả vẻ đẹp Việt Nam trong bài Chợ Tết:
‘Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ’.
Những từ ‘cao’, ‘sâu’, ‘rộng’, ‘dài’ tạo nên không gian bao la. Sự đảo ngược giữa ‘lên’ và ‘xuống’, ‘cao’ và ‘sâu’ khiến người đọc trải qua cảm giác choáng ngợp.
Trong hình ảnh của sóng gió Tràng Giang, chỉ còn một chỗ gập ghềnh.
Cả hai khổ thơ sử dụng thể thơ thất ngôn hợp lý, kết hợp từ láy, biện pháp tu từ, và thủ pháp nghệ thuật tương phản để làm nổi bật nỗi sầu cô đơn của cái tôi trước thiên nhiên, với tình yêu nước và nỗi buồn hiu quạnh của con người. ‘Tràng giang’ là bài thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới, kết hợp miêu tả cảnh quê hương và thể hiện tình yêu nước sâu sắc, nỗi buồn cô đơn và bơ vơ của con người ngay trên quê hương của mình.
Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 4
6. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 7
Huy Cận dường như đã hòa mình vào hồn thơ, để lưu giữ những nỗi buồn thênh thang của thời đại, chuyển tải chúng vào những dòng thơ trữ tình. Tràng Giang chính là bức tranh rõ nhất về cái hồn ấy, phản ánh phong cách thơ Huy Cận. Đặc biệt, hai khổ đầu tiên, là bức tranh tuyệt vời đẹp và buồn bã về cảnh vật:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Nhìn nhận về thời gian, Huy Cận chợt nảy bật, với tâm hồn vội vã, cuống quýt trong nhịp sống. Cảnh sông dài, sóng buồn điệp điệp, như một dòng thời gian vô tận. Từ ‘tràng giang’ làm nổi bật vẻ cổ điển, đưa người đọc trở về những thế kỷ xưa, những con sông hùng vĩ. Thuyền và nước, biểu tượng cho sự chia cắt, hiện rõ trong câu thứ ba. Sầu thương của dòng sông, buồn bã của dòng chảy vô tận, chảy qua vô số ngả, mang theo nỗi buồn lòng, sự chia li, tách biệt giữa thuyền và nước, tượng trưng cho sự tan rã, chia ly. Câu thứ tư, với từ ‘củi’, làm nổi bật sự héo hắt, tàn lụi, thậm chí là sự mất mát của sự sống. ‘Một cành khô’ gợi lên cảm giác đơn độc, lạnh lẽo giữa dòng sông vô tận, nhưng cành củi không chỉ đơn độc, mà còn lưu lạc vô phương vô tích. Huy Cận chọn lựa chất liệu từ cuộc sống, diễn đạt một cách chân thực sự cô đơn, bế tắc của tác giả và thời đại. Chợ chiều, biểu tượng của sự sống động, nơi nhộn nhịp, đông đúc. Nhưng ở đây, chợ chiều đã vãn. Cảnh vật buồn bã, cuộc sống chìm đắm trong cảm giác hiu quạnh. Hai câu thơ cuối, đặc biệt là với cụm từ ‘sâu chót vót’, tạo ra cảm giác đồng thời là độ sâu và độ cao, tạo cảm nhận sâu sắc của độc giả. Cảm giác cô đơn, hiu quạnh giữa sông dài và trời rộng, giữa vô tận.
Chỉ với 8 câu thơ, Huy Cận đã làm sống dậy cảnh vật, chất buồn lưu trong từng từ, tạo nên cảm giác âu sầu đặc trưng trong thơ ông.
Phân tích hai khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 7
7. Phân tích hai khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 6
Huy Cận, tên tuổi lừng lẫy trong làng thơ Mới, nổi tiếng với tâm hồn thơ cổ điển đặc sắc. Ông thường chia sẻ, ‘Trước Cách mạng, tôi thường dành thời gian vào mỗi chiều chủ nhật để lên đê Chèm, ngắm sông Hồng. Vẻ đẹp của dòng sông gợi cho tôi nhiều cảm xúc.’ Tràng Giang ra đời trong một chiều lãng mạn như thế, được xuất bản trong tập Lửa Thiêng (1940). Bài thơ không chỉ là hình ảnh thiên nhiên đẹp, mà còn là trải nghiệm tinh tế, chứa đựng tâm trạng sâu sắc của nhà thơ. Hãy cùng phân tích 2 khổ thơ đầu của Tràng Giang để hiểu rõ hơn điều đó.
Thơ là một thể loại mang nhiều ý tứ, và người viết thơ thường biểu đạt suy tư của mình thông qua cảnh thiên nhiên. Huy Cận cũng vậy, ông mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh quen thuộc như con thuyền, dòng sông:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
Xem thêm : CĐM ngã ngửa với hình ảnh kém sắc của Vy Oanh tại tòa
Ẩn sau vần ‘ang’ trong ‘tràng giang’ là một không gian rộng lớn, sâu sắc, điều này là đặc điểm nổi bật của phong cách thơ của Huy Cận. Tâm trạng của nhà thơ lý giải qua từ ‘buồn điệp điệp’, nỗi buồn không còn là điều mơ hồ, mà trở nên cụ thể như những đợt sóng dâng trào. Đọc câu thơ, ta cảm nhận nỗi buồn kéo dài, tồn tại vĩnh cửu. Từ ‘song song’ trong câu thơ sau tạo ra hình ảnh hai thế giới gần nhau mà không hề va chạm, nhấn mạnh sự cô đơn của con thuyền giữa dòng sông và cô đơn của con người trong cuộc sống.
Thuyền và nước, hai sự vật thường liên kết mật thiết, nhưng ở đây chúng lại tách rời:
“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
‘Thuyền về’ nhưng ‘nước lại’, hoạt động ngược lại, tách rời, tạo cảm giác xa cách, mất mát ‘sầu trăm ngả’, nơi mọi nơi đều là buồn bã, đau thương. Cụm từ ‘củi một cành khô’ là hình ảnh độc đáo, trong thơ ca truyền thống, thường sử dụng các chất liệu như tùng, cúc, trúc, mai, nhưng Huy Cận chọn củi khô. Từ ‘lạc’ tạo ra hình ảnh một thân phận bị đẩy ra ngoài ý muốn, lạc lõng giữa dòng nước, biểu hiện cho số kiếp lênh đênh, lạc lõng của con người giữa thế gian rộng lớn.
Đến khổ thơ thứ hai, tầm nhìn của thi sĩ vượt xa để bắt gặp một không gian hoang vắng:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Những câu thơ này gợi lên hình ảnh vắng lặng giống như trong Chinh Phụ ngâm:
“Non kì quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.”
Ngọn gió đìu hiu xuất hiện một lần nữa, tạo nên không gian vắng lặng. Từ ‘lơ thơ’ nhấn mạnh sự thưa thớt, rời rạc của cảnh vật, những hòn đất nhỏ trên dòng ‘Tràng giang’ với lau và sậy mỗi khi có gió thổi trở nên tiêu điều hiu hắt. Tác giả khéo léo sử dụng âm thanh của chợ để tạo ra hình ảnh vắng lặng, thể hiện sự sống đã trải qua thời kỳ hối hả, giờ đây bình yên, nhưng vẫn còn vết thương của quá khứ.
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
Không gian mở rộng ra ba chiều, tăng chiều cao, chiều rộng, chiều dài, với từ ngữ độc đáo như ‘sâu chót vót’. Hình ảnh của con người trở nên nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi giữa vũ trụ bao la và vô tận. Hai chữ ‘cô liêu’ cuối đoạn thơ làm tăng âm hưởng buồn thương, làm nổi bật nỗi cô đơn của con người giữa không gian lớn mênh mông. Huy Cận đã kết hợp tinh tế giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, với sự chọn lọc từ ngữ đầy ấn tượng và cách ngắt nhịp thơ độc đáo. Phân tích 2 khổ thơ đầu của Tràng giang, ta nhận thấy sự đẹp và buồn hòa quyện, tạo nên những cảm xúc khó nói thành lời. Tác phẩm này chắc chắn sẽ làm say mê những người yêu thơ, vượt qua thời gian và giữ vững trong lòng độc giả dù cuộc sống luôn đầy xô bồ và vội vã.
Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 6
8. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 9
Phong trào thơ mới chứng kiến sự đột phá của rất nhiều thi sĩ nổi tiếng với hàng ngàn tác phẩm tuyệt vời. Trong đó, chúng ta không thể bỏ qua tác phẩm “Tràng Giang” được sáng tác dưới ngòi bút của Huy Cận. Với sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, cùng câu từ đơn giản nhưng tinh tế tác giả thành công khắc họa hình ảnh mông mông của thiên nhiên hùng vĩ, qua đó cũng thể hiện nỗi niềm u buồn chất chứa, sự bế tắc của một kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nổi bật phải kể đến 2 khổ thơ đầu đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.
Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên nhà thơ đã cho người đọc thấy được một con sông chất chứa bao nhiêu nỗi buồn sâu thẳm:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Một loạt từ ngữ “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng” gợi cảm giác thê lương cùng từ láy “điệp điệp”, “song song” càng làm nỗi buồn trở nên mênh mông vô tận của tác giả trong thời thế có nhiều bất công. Tác giả mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và đặc biệt là hình ảnh “củi khô” trôi một mình để người đọc thấy rõ sự đơn độc. Nét chấm phá cổ điển xen lẫn nét hiện đại được thể hiện rõ nét, gợi tả câu thơ đầy ám ảnh với một dòng sông dài, mang nét đẹp trầm tĩnh, u buồn khiến người đọc cảm thấy thật thê lương.
Theo quy luật thì thuyền và nước là hai thứ không thể nào tách rời nhau, thuyền nhờ nước mới có thể trôi. Thế nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, câu thơ là một uẩn khúc hay là một sự chia lìa không hề báo trước? Dù là ý nghĩa nào thì người nghe cảm thấy quạnh lòng xót xa. Trong khung cảnh mênh mông sông nước có một nỗi buồn đến tận cùng. Hình ảnh “củi khô” xuất hiện cuối câu thơ là điểm nhấn của khổ thơ gợi lên sự bé nhỏ, mỏng manh, đơn chiếc, trôi dạt khắp nơi mặc cho dòng nước đưa đẩy. Câu thơ như muốn nói về một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, lận đận giữa cuộc sống với bộn bề lo toan, tính toán. Dường như nỗi hiu quạnh đó được Huy Cận tăng lên gấp bội trong khổ thơ thứ 2:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Một làng quê thiếu sức sống hiện lên với cồn cỏ lơ thơ, hiu quạnh trước gió, khiến người đọc không khỏi nặng lòng khi nghĩ đến. Ngay cả phiên chợ chiều vốn nơi xa cũng không thể nghe thấy tiếng ồn ào, hay có khi nào phiên chợ đó cũng vắng lặng đến buồn hiu. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu, nó là một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa. Chẳng biết là tác giả đang hỏi người hay là đang tự hỏi bản thân mình. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không tiếng động, không bóng người sao thật chua xót quá.
Sự mênh mông vô định của thiên nhiên được tác giả đặc tả bằng hình ảnh trời và sông. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lúc này chúng ta có thể thấy được nét tài tình và độc đáo cả thi sĩ khi lấy chiều cao để đo chiều sâu. Giữ không gian sông nước mênh mông và tác giả kết thúc đoạn thơ bằng một chữ “cô liêu” dường như đã lột tả hết nỗi buồn rầu, cô đơn từ sâu thẳm tâm hồn mà không biết ngỏ cùng ai.
Khép lại hai khổ thơ đầu ta như thấy được giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nỗi sầu nhân thế của tác giả dừng như chiếm trọn tâm trí. Đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương và sự cô đơn, hiu quạnh của tác giả chẳng biết gửi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim.
Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 9
9. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 8
Là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ mới, Huy Cận đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm tuyệt vời. Bài thơ “Tràng Giang” của ông, sáng tác trong thời kỳ trước cách mạng, mang trong mình nỗi buồn thấu hiểu, sự lạc lõng của cuộc sống, nơi con người trôi nổi không điểm dừng. Hai khổ thơ đầu tiên đã diễn đạt tinh thần của tác giả.
Bước vào bài thơ, Huy Cận mở đầu bằng những hình ảnh quen thuộc nhưng đậm chất tình cảm:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Với sự khéo léo, tác giả sử dụng âm Hán Việt “ang” trong “tràng giang” để tạo nên bức tranh của một không gian mở rộng, hùng vĩ. Điều này cũng là đặc điểm nổi bật trong thơ của Huy Cận. Tâm trạng của nhà thơ lúc này trở nên “buồn điệp điệp” – một loại buồn như là những đợt sóng liên tiếp cuốn trôi, đập vào bờ. Nỗi buồn này dường như tồn tại mãi mãi, vững vàng trong tâm hồn tác giả. Từ láy “song song” như muốn nói về sự hiện hữu của hai thế giới, luôn gần nhau nhưng chẳng bao giờ gặp gỡ.
Qua 2 câu thơ, tác giả đã khắc họa được sự cô đơn, lẻ loi của con thuyền trên dòng sông, tượng trưng cho cô đơn của con người trước cuộc sống. Huy Cận đã thông qua nghệ thuật tương phản để tạo ra sự đối lập, gọi cảm giác xa cách, cô đơn:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Điều độc đáo và mạo hiểm khi tác giả sử dụng hình ảnh cành củi khô trong lời thơ, một biểu tượng mới và độc đáo. Tác giả muốn cho thấy sự sáng tạo trong phong cách thơ mới, khi những vật thường ngày được đưa vào thơ. Hình ảnh củi khô trong cuộc sống hàng ngày lại mang đến một vẻ đẹp giản dị nhưng có giá trị biểu đạt sâu sắc. Huy Cận thông qua việc đảo ngữ và lựa chọn từ đơn để mô tả sự cô đơn của cảnh củi khô trôi lênh đênh trong sự vô tận của dòng nước. Trong khổ thơ thứ hai, tác giả miêu tả không gian vắng vẻ, cô đơn:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Các từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đưa đến hình ảnh nhỏ bé, giữa không gian mênh mông vô tận – đây là cảm nhận hình ảnh qua thị giác. Ngoài thị giác, tác giả còn lắng nghe âm thanh cuộc sống, với tiếng làng xa vãn chợ chiều. Ánh nắng chiều cùng với cảnh sông dài, trời rộng và bến cô liêu làm nổi bật nỗi cô đơn, nỗi buồn trước cuộc sống. Người đọc có thể dễ dàng cảm nhận sự tuyệt vọng của tác giả, khi không tìm thấy sợi dây kết nối với thế giới ngoài kia.
Hai khổ thơ đầu tiên của “Tràng Giang” của Huy Cận mang đến không gian ám ảnh với nỗi buồn và sự cô đơn kéo dài vô tận. Một sự lạc lõng, cô đơn của con người trước dòng đời, không tìm thấy sự kết nối với thế giới xung quanh. Có lẽ vì vậy mà tác phẩm vẫn là nguồn cảm hứng không ngừng, không bị lụt thấp qua thời gian.
Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 8
10. Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài ‘Tràng giang’ số 10
Huy Cận, nhà thơ với tâm hồn ‘cổ điển nhất trong dòng Thơ mới’. Ông tiết lộ, “Trước Cách mạng, tôi thường dành chiều chủ nhật hàng tuần để lên đê Chèm ngắm cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp làm trào dâng nhiều cảm xúc trong tôi”. Bài thơ “Tràng giang” của ông, viết ra để thể hiện nỗi buồn, cô đơn và sự lạc lõng của con người trước cuộc sống.
Bắt đầu bài thơ, Huy Cận sử dụng hình ảnh quen thuộc: con thuyền, dòng sông để gợi lên cảm xúc:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Âm Hán việt “tràng giang” được tác giả kết hợp với vần “ang”. Hình ảnh này tạo nên một không gian rộng lớn, nổi bật trong thơ của Huy Cận. Tâm trạng nhà thơ mở ra với “buồn điệp điệp”. Đây là nỗi buồn được cụ thể hóa, giống như từng đợt sóng dâng trào liên tiếp gối vào nhau, không ngừng vỗ vào bờ. Nỗi buồn ấy vững vàng, âm ỉ như sự tồn tại vĩnh cửu. Từ “song song” như muốn diễn đạt về hai thế giới đứng cùng nhau mà không bao giờ gặp nhau. Đó là sự gần gũi nhưng lại không có sự gặp gỡ. Thông qua đó, tác giả nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô độc của con thuyền trên dòng sông, có lẽ cũng là sự đơn lẻ của con người giữa cuộc sống đầy sóng gió. Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật tương phản để tạo nên nét cổ kính cho khổ thơ. Theo quy luật, thuyền và nước là hai sự vật mật thiết, nhưng trong bài thơ, chúng lại có hành động ngược lại, lạc nhịp, tạo cảm giác xa cách, cô đơn và mất mát:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hình ảnh cành củi khô độc đáo và táo bạo trong thơ ca Việt Nam. Đó là biểu tượng mới và độc đáo. Huy Cận đã đưa vào Thơ mới hình ảnh cành củi khô để nói lên tấm lòng của thế hệ mới. Vì vậy, vật thường ngày được đưa vào thơ mới, nhưng hình ảnh củi khô mang đến vẻ đẹp giản dị, đời thường nhưng lại chứa đựng giá trị biểu đạt sâu sắc. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, lựa chọn từ đơn để tả sự cô đơn của cảnh củi khô lênh đênh trong vô tận của dòng nước. Trong khổ thơ thứ hai, tác giả mô tả không gian vắng vẻ, cô quạnh:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Từ “lơ thơ”, “đìu hiu” tạo nên hình ảnh nhỏ bé giữa không gian mênh mông vô tận – đây là cảm nhận qua thị giác. Ngoài thị giác, tác giả lắng nghe âm thanh cuộc sống, với tiếng làng xa vãn chợ chiều. Bức tranh của ánh nắng chiều cùng với cảnh sông dài, trời rộng và bến cô liêu làm nổi bật nỗi cô đơn, nỗi buồn trước cuộc sống. Người đọc dễ dàng cảm nhận sự tuyệt vọng của tác giả, khi không thể tìm thấy sợi dây nối liên với cuộc sống.
Hai khổ thơ đầu tiên của bài “Tràng giang”, Huy Cận đã khắc họa một không gian rộng lớn, chứa đựng nỗi buồn và cảm giác cô đơn kéo dài vô tận. Đó là sự cô đơn, lạc lõng của con người trước cuộc sống, và không tìm thấy sự kết nối với bản thân trong cuộc đời.
Phân tích hai khổ thơ đầu trong bài “Tràng giang” số 9
Nguồn: https://truongnguyentatthanh.edu.vn
Danh mục: Blog
Ý kiến bạn đọc (0)