Blog

Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng

1
Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng

Các bạn hãy tham khảo Phân tích Hạnh phúc của một gia đình tang trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng để nhận thức về sự suy giảm đạo đức trong nhóm người thuộc thế lực thượng lưu tư sản, qua đó lộ ra bức tranh thực tế tối tăm của xã hội thực dân nửa phong kiến.

Mục Lục nội dung:1. Bài viết mẫu số 12. Bài viết mẫu số 23. Bài viết mẫu số 34. Bài viết mẫu số 45. Bài viết mẫu số 56. Bài viết mẫu số 67. Bài viết mẫu số 7

Đề bài: Nghiên cứu về Hạnh phúc của một gia đình tang trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng

7 bài văn mẫu Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng

1. Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, mẫu 1:

Khi nhắc đến Vũ Trọng Phụng, người ta liên tưởng ngay đến ông là ‘vua phóng sự của Đất Bắc Kì’. Đúng vậy, ông để lại dấu ấn lớn trong văn học với những tác phẩm nổi tiếng như: Cạm Bẫy Người (1993), Giông tố (1936)… Trong số đó, tiểu thuyết ‘Số Đỏ’ là một kiệt tác mang đầy bản sắc xã hội thời kỳ đó. Đoạn trích ‘Hạnh phúc của một tang gia’ đặc trưng cho bức tranh hài hước và sâu sắc của Vũ Trọng Phụng.

Trong đoạn trích này, chú trọng vào cảnh đám tang Cụ tổ như một vở kịch hài. Các tình tiết và diễn biến tạo nên một bức tranh tang lễ từ bi thảo, từ một buổi tang trở thành một tình huống hài hước bi thảo. Sự ra đi của Cụ tổ không chỉ làm buồn cười mà còn làm người ta suy ngẫm. Cái chết mang đầy tính chất tragi-comic, khi đạo đức sa sút, con cháu chỉ biết ăn mừng hưởng lợi. ‘Cái chết của ông già hơn 80 tuổi’ mở ra một thế giới tư duy thực dụng và ích kỷ. Nét hài hước, châm biếm, và chỉ trích của tác giả giúp nhân vật cười chua, làm nổi bật những hành động ngớ ngẩn của con cháu.

Để hiểu về hạnh phúc gia đình khi cụ tổ qua đời, tác giả chiến đấu từng nhân vật để tìm ra liệu họ thật sự xót thương và buồn bã hay chỉ đơn giản biến đám tang thành cơ hội cá nhân?

Bài văn Phân tích Hạnh phúc của một gia đình tang chi tiết và đầy đủ

Cụ cố Hồng – con trai lớn của cụ tổ – thực sự sung sướng khi cha ông qua đời, coi đây như cơ hội để tỏ ra già yếu và lo lắng về cái chết của cha mình. Nhân vật này đặc sắc đề cập đến sự ngu dốt và ham muốn danh vọng trong xã hội phong kiến.

Kế bên cụ cố Hồng là Văn Minh và ông TYPN, họ lại thể hiện sự hân hoan vô tận trước cái chết của ông nội. Đây trở thành cơ hội cho ông TYPN quảng bá nền văn minh Á-Âu tại đám tang. Thật đau lòng khi đám ma trở thành cơ hội kinh doanh và quảng cáo cho con cái. Bà Văn Minh lại vui mừng vì đây là dịp để trưng diện những trang phục thời thượng, đánh bại truyền thống. Thật là sự vô ơn và thiếu lòng trắc ẩn của những người thiếu trí thức.

Trích đoạn tác giả mô tả cô Tuyết, xuất hiện tại đám ma với bộ y phục gợi cảm ‘Áo voan mỏng trong suốt, hở nách và vú’, tưởng như chỉ là chi tiết quá mức, nhưng không chỉ ở trang phục, cô Tuyết còn thể hiện tính cách lãng mạn, sự lạc quan, giữa không khí tang thương, vẻ buồn nhưng thực chất là nỗi buồn nhớ về người tình.

Còn cậu Tú Tấn, hân hạnh vì có thể sử dụng chiếc máy ảnh đã lâu, lại thách thức bản thân khi dám chụp ảnh tại đám ma, thậm chí dẫm đạp lên mộ để tạo nên bức ảnh chuyên nghiệp như một nhiếp ảnh gia.

Ngược lại, ông Phán Mọc Sừng sung sướng khi sừng đầu mình được thưởng thêm tiền sau đám ma. Xuân Tóc Đỏ thì trở nên nổi tiếng hơn và được tôn trọng nhiều hơn vì có đóng góp trong sự kiện chết của cụ Tổ.

Không chỉ gia đình cụ Tổ, mà còn những người ngoại vi cũng đóng góp vào niềm vui trong bối cảnh tang thương. Mặc dù là đám ma, nhưng lại có kiệu bát cống, lợn quay xa hoa như một lễ rước. Có cả kèn ta, kèn tây làm tăng thêm sự ‘âu hóa’. Đám ma trở thành cơ hội cho những người trẻ trung và quyến rũ tạo dựng hình ảnh cá tính của họ. Một tình huống đáng lên án.

2. Đánh giá Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, phiên bản 2:

Số đỏ là một tác phẩm trào phúng, tinh tế theo lối hiện thực chủ nghĩa. Với bút phê của mình, Vũ Trọng Phụng đã lên án những thói xấu, sự giả dối trong xã hội thực dân, phong kiến thế kỷ XX. Mỗi chương, mỗi đoạn văn đều mang đến sự thú vị như một vở hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt, chương Hạnh phúc của một tang gia để lại ấn tượng mạnh mẽ.

Ý nghĩa châm biếm đã được gửi gắm ngay trong tên chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí là đại tang, mọi người đều biết rằng đây là thời điểm buồn bã, nhưng lại đầy hạnh phúc. Ngược lại với suy nghĩ thông thường, trong bối cảnh cụ thể của gia đình này, điều đó lại là chân thực, hợp lý. Tại đám tang cụ Tổ, mọi người đều hân hoan như đang ở lễ Tết: con cái, cháu chắt, họ hàng, bạn bè… ai cũng cảm thấy đây là dịp để thoả mãn những ước vọng, ý đồ cá nhân.

Vũ Trọng Phụng tài tình phác họa hình ảnh những tầng lớp thượng lưu, quý tộc, được coi là văn minh và tiên tiến, nhưng thực tế lại là những tảng bã, quặng thối của xã hội hỗn độn, vừa Tây vừa Ta, thời đó.

Trong chương này, tác giả tài năng tạo ra những tình huống đặc sắc để tiết lộ nhân cách độc đáo của các nhân vật. Đặc biệt, phải nhắc đến thái độ của những người có mối quan hệ ruột thịt với cụ Tổ.

Sự ra đi của cụ không gây tiếc nuối cho con cháu, vì từ lâu họ mong cụ chết để chia gia sản. Thay vào đó, cái chết của cụ mang lại niềm vui lớn – một ‘hạnh phúc’ không thể che giấu: Nhiều người sung sướng với cái chết ấy. Con cháu vô tâm đều hân hoan, không ai cảm thấy buồn bã… Mọi người tưng bừng khi đi phát giấy cáo phó, tổ chức đám tang, thuê xe ma… Tang lễ trở thành một sự kiện vui vẻ…

Cậu Tân, cháu nội của cụ Tổ, phấn khích vì có cơ hội sử dụng máy ảnh đã lâu. Vợ Văn Minh (cháu dâu) hạnh phúc vì có dịp diện đồ xô gai hiện đại và đội mũ mấn trắng viền đen… để quảng bá cho bộ đồ tang mới lạ của cửa hàng Âu hoá mới sản xuất.

Con trai lớn của cụ Tổ cũng sung sướng vì lý do khác. Cụ Hồng mơ màng về lúc cụ mặc đồ xô gai, chống gậy, vừa hò khẩn vừa khóc mếu để thu hút sự chú ý, ngợi khen: Ôi, con giai nhớn đã già đến vậy rồi. Văn Minh (cháu nội), từng du học lâu dài tại Tây, khi trở về không mang theo mảnh bằng, chỉ nghĩ đến việc chia gia sản thì hào hứng vì chúc thư đã bước vào thực tế thực sự. Riêng cháu rể (Phán mọc sừng) rất hạnh phúc vì được bố vợ nói rằng sẽ chia thêm một số tiền với con gái và con rể. Ông ta không ngờ sức giá của đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông lại lớn đến vậy!

Không khí của đám tang trở thành bữa tiệc sôi động, một mâu thuẫn trào phúng khiến người ta cười đến nước mắt trong cảnh này. Đám tang lớn chưa từng thấy ở Hà Thành, đầy đủ kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, hàng trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, và cả rất nhiều người đưa đám trang trọng, kính trọng đi sau linh cữu cụ Tổ. Tiếng kèn huyên náo từ kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, âm thanh độc đáo của lốc bốc xoảng và bu-dích…

Những bài Phân tích Hạnh phúc của một tang gia được lựa chọn

Đám tang cụ Tổ trở thành dịp hiếm để trưng bày và quảng cáo những mốt quần áo Âu hoá mới nhất từ tiệm may của Văn Minh – Typn, một nhà thiết kế mĩ thuật nổi tiếng. Cô Tuyết, cháu gái của cụ Tổ, diện bộ trang phục hở hang, tạo vẻ buồn lãng mạn, phản ánh đúng xu hướng mới của những người có tang. Điều này khiến nhiều khách nam xúc động trước làn da trắng mịn nổi bật trong chiếc áo voan trên cánh tay và ngực của Tuyết, họ cảm thấy buồn bã, nao lòng. Bộ trang phục tang cũng làm mọi người phải xuýt xoa, khen ngợi…

Ngoài thân nhân, còn phải nói đến nhóm bạn bè, quan khách của gia đình tang chủ. Họ không đi đưa đám để chia buồn, mà thực sự là để khoe ngực đầy huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh… có đủ râu ria, dài ngắn, đen hay hung dữ, lún phún hay rầm rậm, loạn quản… Phụ nữ và thanh niên thời trang theo phong cách Âu hoá vui vẻ cười đùa, đánh giá, chê trách, hẹn hò… Và đặc biệt, họ làm tất cả với khuôn mặt buồn rầu của những người tham gia đám tang (!) Cho thấy sự dửng dưng hoàn toàn trước cái chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và giả tạo.

Đám đông hai bên đường đổ về xem đám tang như một hiện tượng lạ. Đám tang lớn đến nỗi người trong gia đình cảm thấy vui sướng và cả phố người khen ngợi về kích thước của đám tang. Một nhà văn lạnh lùng nhận xét: Đám tang lớn có thể khiến người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không thì cũng gật gù đầu. Quả là mỉa mai, châm biếm!

Đằng sau sự phô trương, vẻ long trọng và danh giá là sự rối bời, thờ ơ đến mức lố lăng. Thói háo danh của giới giàu có, hãnh diện và sự thống trị của đạo đức giả, tự lừa dối bản thân và người khác, nổi lên như một thực tế không thể phủ nhận.

Cùng với việc mô tả hình thức đám tang và các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng sâu sắc phản ánh, phanh phui mặt tiêu cực của nó. Bằng ngòi bút tài tình, nhà văn đưa ra những bức tranh biếm họa, làm nổi bật mặt trái của đám tang. Ông giúp người đọc nhận ra rằng mặc dù đám tang to lớn, nhưng thiếu điều quan trọng nhất – lòng nhân ái. Nếu không có lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất, thì mọi hình thức loè loẹt, om sòm đều trở nên vô nghĩa, chỉ là trò cười cho đám đông. Những người tham gia đám tang đều chung một khuôn mặt giả dối và thiếu đạo đức.

Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng và kỳ quặc của đám tang cụ Tổ lên đến đỉnh điểm. Anh ta xuất hiện đúng lúc, thu hút sự chú ý của hàng trăm người và tạo ấn tượng mạnh với hai vòng hoa to lớn, sáu chiếc xe kéo sang trọng và đám sư, trong đó có cả sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến bà cố Hồng cảm thấy hạnh phúc hơn: Nếu không có món này thì đám tang thiếu điểm quan trọng, may mà ông Xuân đã nghĩ ra. Người yêu của Xuân Tóc Đỏ, cô Tuyết, cũng phải liếc mắt đưa tình với anh ta.

Một số chi tiết mô tả cảnh hạ huyệt trở nên châm biếm và trào phúng. Vũ Trọng Phụng miêu tả nó như một vở kịch mà đạo diễn quá lộ liễu, trắng trợn: Tú Tân bắt mọi người chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để chụp ảnh, trong khi bạn bè của anh ta nhảy lên các mộ khác để có những bức ảnh khác nhau. Tình huống hài hước khiến người đọc cười đến nước mắt. Chỉ có tiếng khóc lớn nhất là của ông Phán mọc sừng: Ông ta ôm người đi, khóc mãi không ngừng và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức. Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người, không phải vì thương tiếc người đã khuất mà chỉ để làm kịch trước đám đông. Thực tế, cụ Tổ mất là niềm vui cho ông ta vì có cơ hội chia phần khá lớn, kể cả giá trị của chiếc sừng mà cô vợ đã đặt lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán nhanh chóng đưa một tờ giấy bạc năm đồng vào tay Xuân Tóc Đỏ… như một cách để đền đáp công việc gọi ông là Phán mọc sừng trước gia đình vợ, giúp ông có được một khoản tiền lớn hơn.

Trong chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng xuất sắc thể hiện tài năng kể chuyện của mình. Phong cách viết của ông không chỉ phóng đại mà còn như không phóng đại, làm cho mọi thứ trở nên thực tế và hơn thực tế. Ông lưu ý đến những mâu thuẫn giữa sự kiện và bản chất, khai thác một cách triệt để để tạo ra những tràng cười mang ý nghĩa sâu sắc. Cảnh đám tang trở nên như một vở hài kịch sống động, một tác phẩm biếm họa to lớn và chi tiết về xã hội tự phong là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời kỳ đó đang phơi bày tất cả những thiếu sót và đồi bại trước mắt mọi người.

3. Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, mẫu 3:

Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. Ông đã đưa ra đời năm tác phẩm nổi tiếng: ‘Giông tố’, ‘Số đỏ’, ‘Làm đĩ’, ‘Vỡ đê’. ‘Hạnh phúc của một tang gia’ là một đoạn trích trong tác phẩm ‘Số đỏ’ của ông.

Tang gia, mặc dù đau thương và buồn thảm, lại chứa đựng hạnh phúc. Cụ Tổ, hơn 80 tuổi khi qua đời, được coi như ‘sướng lắm’.

Tác giả đã tạo nên một tình huống điển hình để phác họa sự đồi bại trong gia đình trưởng giả này, phơi bày những quái thai của xã hội dỏo Ta dỏo Tây thời đó. Cha mất, ông chết, và ‘bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thoả thích’. Đây là dịp hiếm để khoe khoang, phô trương giàu có, trình bày sự sang trọng cho mọi người biết. ‘Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân… Niềm vui tràn ngập:’ tang gia ai cũng vui vẻ cả’.

Người con trai cả – cụ cố Hồng – ngay lập tức hút 60 điếu thuốc phiện, mắt lấp lánh hả hê. Trong niềm hạnh phúc của việc cha mất, cụ vui vẻ, trong khi thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 cậu gắt: ‘Biết rồi, khổ lắm, nói mãi’. Trong dư vị êm đềm của thuốc phiện, cụ ‘nhắm nghiền mắt lại để mơ màng ‘ đến giờ phút hạnh phúc ‘hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu’ để cho thiên hạ phải trầm trồ:’ một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế’, rồi chỉ trỏ: úi giời, con giai nhớn đã già đến thế kia.,.’. Con trai ‘báo hiếu’ cha một cách mỉa mai! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.

Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện trong đám tang với vẻ ngoài lố lăng, Văn Minh sau khi đi du học 6-7 năm không có bằng cấp nào, quay về mở hiệu may để thúc đẩy trào lưu ‘Âu hóa’ nhằm ‘khoe những bộ phận kín đáo của phái đẹp’. Ông nội chết, đứa cháu quý hóa này đầy tham vọng về việc chia gia tài, vui mừng vì ‘chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết xa xôi’. Cậu Tú Tân tận dụng dịp để trổ tài với ‘mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến’. Khi đưa tang, cậu thể hiện sự lăng xăng, chạy lên chạy xuống, đạo diễn hạ huyệt bắt bẻ từng chi tiết ‘chống gậy’, ‘gục đầu’, ‘cong lưng’, ‘lau mắt’ để bấm máy. Y diện chiếc áo thụng trắng như một hề!

Phân tích ‘Hạnh phúc của một tang gia’ trong chương trình văn lớp 11

Vũ Trọng Phụng mô tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều chi tiết hài hước, châm biếm về sự rườm rà của thượng lưu tha hóa. Một lễ tang lớn nhưng chỉ là cuộc diễu hành. Kiệu bát cống, lợn quay, lốc bốc xoẻng, vài trăm người đưa đám, tất cả theo lối ‘Ta Tàu, Tây’. Bầy con cháu sung sướng, còn người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng hoặc gật đầu. Vẽ nét hài hước, phê phán trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.

‘Có bao đám quan khách’ sang trọng đến đưa ma cụ Tổ. Phụ nữ chiếm nửa, là ‘giai thanh gái lịch’, bạn của Tuyết và bà Phó Đoan… Họ đến đưa ma để ‘cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau…’. Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ ‘ngực đầy những huy chương’ của ‘nước mẹ’ hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Tả bộ râu của đám quan khách bằng ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thần tình. Chi tiết về bộ râu khiến người đọc cười đau bụng.

Vũ Trọng Phụng sử dụng thủ pháp mô tả ‘phục bút’ để miêu tả Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ ‘ngây thơ’ để đi mời trầu và thuốc lá quan khách với ‘vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám’. Cô sung sướng khi thấy ‘anh Xuân’ đã đến và ‘liếc mắt đưa tình’. Xuân Tóc Đỏ đến đưa đám sang trọng với 6 chiếc xe, sư chùa Bà Banh, sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn… khiến cụ bà sung sướng: ‘Giá mà không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!’. Xuân Tóc Đỏ đến phúng viếng toàn bộ làm cho đám ma trở nên ‘danh giá nhất tất cả’.

Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán ‘mọc sừng’ vốn đã nhờ ‘đôi sừng hươu’ ấy mà được bố vợ chia thêm vài nghìn đồng bạc. Ông ta khóc to: ‘Hứt!… Hứt!.. Hứt!…’ để báo hiếu và giữ chứ ‘tín’ với ân nhân. Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra một cách kín đáo, Xuân và ông Phán như cặp diễn viên hài siêu hạng. Đây là tình huống độc đáo và hài hước trong màn kịch ‘đám ma gương mẫu’, vạch trần sự bịp bợm và thô bỉ của bọn ‘thượng lưu’ trong xã hội ‘chó đểu’.

Tóm lại, qua chương ‘Hạnh phúc của một tang gia’, Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Tài năng của tác giả là phóng đại những bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng bằng nghệ thuật trào phúng, làm cho người đọc thấy được sự thật đau lòng. Chuyện kể đầy kịch tính với sự phi lí ghê người đã lật tung mặt nạ của bọn đạo đức giả!

Tiếng cười trong ‘Số đỏ’ là tiếng cười châm biếm, tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ thực sự là một màn hài kịch, với bầy con cháu và lũ quan khách, phơi bày bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu ‘Âu hóa’ kệch cỡm.

4. Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, mẫu 4:

Một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu thể hiện sự phê phán mạnh mẽ về xã hội tư sản là ‘Số đỏ’ của Vũ Trọng Phụng. Chương XV với lối văn châm biếm sắc sảo là một màn hài kịch thú vị, đặc biệt là ‘Hạnh phúc của một tang gia’.

Qua những diễn biến, tang gia và đám tang trở nên không giống ai khi mà họ không đau buồn trước cái chết của cụ tổ. Mỗi thành viên trong gia đình đều tận hưởng hạnh phúc khác nhau: ông Phán mọc sừng hưởng niềm vui vì số tiền thêm từ việc vợ cắm sừng. Cụ cố Hồng nhắm mắt mơ màng về cảnh cụ mặc áo gai, lụ khụ chống gậy. Văn Minh thích thú với thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viễn vông. Tú Tân vui mừng có dịp chụp ảnh, Tuyết khoe vóc dáng qua áo tang. Hạnh phúc ẩn sau những mâu thuẫn và trào phúng không lẽ là không đáng giá?

Chương này hấp dẫn ở mâu thuẫn trào phúng cơ bản, bắt đầu bằng nhan đề ‘Hạnh phúc của một tang gia’. Mọi người trong gia đình đều tận hưởng dịp này để thỏa mãn ý muốn riêng tư. Người ta đang thấy sự sung sướng ngay sau cái chết, nhưng liệu đó có phải là hạnh phúc? Bọn con cháu vô tâm đều thỏa thích với sự thiếu buồn thương. Bất kỳ ai cũng tưng bừng vui vẻ chuẩn bị cho tang lễ như một sự kiện vui mừng.

Không có tình cảm buồn thương, tang lễ trở nên vô nghĩa. Bầy con cháu chỉ nhanh chóng chôn xác của cụ tổ mà không có dấu hiệu thương tiếc. Ông Văn Minh thậm chí biết ơn Xuân Tóc Đỏ vì đã góp phần vào cái chết của cụ tổ.

Danh sách 7 bài văn Phân tích Hạnh phúc của một tang gia đặc sắc nhất

Đám tang hiện lên với sự đua đòi lối sống văn minh rởm. Bằng nghệ thuật châm biếm, đám ma lộ rõ sự giả tạo, rởm đời và tâm lý háo danh. Người ta chứng kiến một sự kiện toàn diện: từ lễ tang đến quảng cáo xô gai, từ trình diễn đồ tang mới đến những bí mật bên trong đám ma. Và đằng sau sự phô trương là một thế giới lố lăng, thể hiện rõ sự mỉa mai của tác giả: ‘Một đám ma to tát có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải mím cười sung sướng, nếu không gật gù cúi đầu!…’

Thành phần quan trọng trong đám tang là những người đưa tang. Bạn bè thân của cụ cố Hồng đua nhau khoe huân chương, kiểu râu và lăng xê vẻ ngoại hình của Tuyết. Những giai thanh gái lịch Âu hóa, bạn của Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, đều mang vẻ buồn rầu, nhưng cũng tiết lộ sự vô đạo đức của xã hội tư sản thành thị. Tác giả tinh tế kể chuyện, phóng đại và làm hài hước mọi góc cạnh của sự vô văn hóa này.

Tác giả, người làm phúc cho tang gia thông qua cái chết được chờ đợi, xuất hiện giữa đám tang, tăng thêm sự lố lăng. Xuân Tóc Đỏ là biểu tượng của tính tinh quái và láu lỉnh, đáp ứng mọi mong đợi của người xung quanh. Cảnh ông Phán đưa giấy bạc và Xuân Tóc Đỏ vội nắm tay tạo nên đỉnh điểm của màn hài kịch, đầy giả dối và bịp bợm. Sự mỉa mai tột cùng của tác giả làm cho mọi thứ trở nên ghê tởm.

Với bút phê trào phúng tài năng, Vũ Trọng Phụng đã phanh phui bọn trưởng giả cuồng theo tiền bạc, đua đòi lối sống văn minh rởm và bộ mặt bịp bợm, dâm đãng, đồi bại của xã hội thời kỳ qua chương ‘Hạnh phúc của một tang gia’. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là biểu tượng cho văn học hiện thực, làm nổi bật tài năng văn chương hàng đầu trước Cách mạng tháng Tám 1945.

5. Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, mẫu 5:

Vũ Trọng Phụng, là nhà văn thuộc trào lưu văn học hiện thực, đã sử dụng tác phẩm Số đỏ để chỉ trích xã hội thời đó dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia mô tả cảnh tang gia trong gia đình cụ cố Hồng với những yếu tố lố bịch và kịch tính nhất.

Cảnh tang gia khiến gia đình bối rối khi cụ cố Tổ qua đời. Sự tập trung chủ yếu vào con cháu, nhưng mọi người vui mừng vì có cơ hội chia gia tài. Gia đình chuẩn bị đám tang một cách bận rộn, còn tranh cãi về mối quan hệ của Tuyết. Dưới ánh sáng mặt trời, con cháu đang nỗ lực để thực hiện những dự định riêng, mong muốn kiếm lợi, trong khi lễ tang diễn ra với sự trang trí và chuẩn bị tỉ mỉ.

Cụ cố Hồng, cha của Văn Minh và ông của Tổ, là người già nhất trong gia đình. Ông thích khi mọi người nhìn thấy ông già và thường tỏ ra quái dị. Trong lúc gia đình xôn xao với sự kiện tang gia, ông bối rối, gắt gỏng, và phát ngôn như con vẹt. Ông tỏ vẻ ung dung khi ngồi hút 60 điếu thuốc, che giấu sự buồn bã trong bản chất. Bút pháp mỉa mai và chi tiết như ‘nhắm nghiền mắt’ làm nổi bật hình ảnh ông, đại diện cho sự kiêu ngạo trong xã hội.

Ông Văn Minh, với vẻ ngoại hình lo lắng và phân vân, bên trong lại lo mời luật sư để chứng kiến cái chết của ông nội để thực hiện di chúc.

Bà Văn Minh không hài lòng vì không được lăng xê tân thời diễn thời trang. Trong khi đó, Văn Minh lo lắng về Xuân Tóc Đỏ, người ông nghĩ đã gây ra cái chết của cụ Tổ. Mâu thuẫn giữa vẻ ngoại hình và nội dung làm lộ Văn Minh, người bất hiếu trong việc kinh doanh cái chết của ông nội.

Cụ Tú Tân với vẻ ngoại hình điên đảo, bên trong đang sốt ruột chờ đợi để sử dụng máy ảnh. Đám tang là cơ hội để cậu thể hiện tài năng, và cậu là một người háo tài. Phán mọc sừng là người sung sướng nhất, hạnh phúc vì giá trị của cặp sừng hơn cả tiền và danh dự. Ông ta là một người vô liêm sỉ và không có liêm sỉ.

 Phân tích đoạn trích ‘Hạnh phúc của một tang gia’ từ tiểu thuyết ‘Số đỏ’ của Vũ Trọng Phụng

Xuân Tóc Đỏ, mặc dù chưa xuất hiện, nhưng lại là người có ảnh hưởng lớn nhất. Cái chết của cụ cố Hồng mang lại cho hắn tiền, danh vọng và tình cảm. Gia đình cụ Hồng đầy rẫy những mâu thuẫn và bất nhân bất nghĩa, thể hiện sự đắng cay của lối sống Âu hóa và quyền lực của đồng tiền. Vũ Trọng Phụng thông qua tác phẩm thể hiện lòng thương cảm với những người trở thành con búp bê của xã hội.

Cảnh đưa đám và hạ huyệt phản ánh đời sống xã hội. Sự náo nhiệt trong chuẩn bị đám tang tương ứng với sự huyên náo khi diễn ra. Đám tang hoành tráng làm nổi bật sự phô trương và hỗn tạp văn hóa. Đám đưa đủ đối tượng từ quan khách đến người nghèo, nhưng tất cả đều không quan tâm đến người đã khuất. Tiếng khóc giả cười và âm thanh đám đưa làm nổi bật xã hội giả tạo, che phủ bởi chiếc áo đạo đức.

Cảnh cử hành tang lễ ‘đám cứ đi’ vẫn tiếp tục, với sự giả dối và lố bịch rõ ràng. Sự giả dối đó vẫn tồn tại và được chấp nhận. Tác giả nhấn mạnh đám tang là giả tạo bề ngoài, lố bịch, và nó là biểu tượng cho sự giả dối của xã hội vô nghĩa.

Cảnh hạ huyệt tràn ngập trào phúng lố bịch khi cậu Tú Tân luôn sẵn sàng chụp ảnh với chiếc áo thụng trắng, biến mỗi người thành nạn nhân của sự múa may của cậu. Hắn tự làm đạo diễn cho một màn hài kịch ngay tại hạ huyệt, biến cả sự đau buồn thành một cuộc rước đám hội thú vị hơn là lễ tang. Chi tiết ông Phán mọc sừng khóc to nhưng thực chất chỉ là để nhắc nhở đại gia đình về công ơn, âm thanh ‘Hứt!…Hứt!’ là tiếng hất đất nhanh chóng để chia tài sản. Tác giả với chi tiết ông Phán dúi Xuân tờ giấy bạc năm đồng gấp tư chỉ ra sự tinh vi trong việc trào phúng và đỉnh cao của sự giả dối khi nhắc nhở về tiền trong giây phút chia tay cuộc sống.

Sự vui mừng từ cái chết của cụ cố Tổ không chỉ giới hạn trong gia đình mà còn lan tỏa ra xã hội. Gia đình rối ren, xã hội bất ổn, và đám tang biến thành sân khấu nơi mà con cháu thể hiện bản chất bất nhân và xã hội mất đạo đức, tất cả đều vì tiền, tình và danh lợi.

Tác phẩm sinh động hóa xã hội thời điểm đó, đặt quyền lực của đồng tiền cao hơn tình cảm gia đình. Tác giả châm biếm để truyền đạt một bài học quan trọng, làm nổi bật vai trò quan trọng của gia đình trong cuộc sống.

6. Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, mẫu 6:

Nếu nhắc đến văn học trào phúng Việt Nam, không thể bỏ qua tác phẩm ‘Số đỏ’ của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Tác phẩm nổi tiếng với châm biếm sắc sảo, tạo nên sức hấp dẫn và những tiếng cười châm biếm. Đoạn trích ‘Hạnh phúc của một tang gia’ là một thành công trong tiểu thuyết, mang đậm dấu ấn của ‘Ông vua phóng sự Bắc Kỳ’.

Điều đầu tiên nổi bật trong đoạn trích là tiêu đề ‘Hạnh phúc của một tang gia’, tạo ra mâu thuẫn và nụ cười trong câu chuyện. Trong khi tang thường gắn liền với đau thương, đoạn trích thể hiện sự hạnh phúc, tạo nên sự mâu thuẫn hài hước.

Trong bối cảnh tang lễ, ông Phán mọc sừng hạnh phúc vì nhận được tiền bồi thường từ vụ vợ cắm sừng. Cụ cố Hồng mơ màng về lúc cụ mặc áo gai, chống gậy để thể hiện sự đau khổ trước đám ma. Văn Minh thích thú với chúc thư kết thúc thời kì lý thuyết. Tú Tân sướng sục vì có dịp chụp ảnh. Bà Văn Minh hào hứng lăng xê thời trang tang tân thời. Cô Tuyết vui mừng khi khoe vẻ gợi cảm qua áo tang. Tất cả hạnh phúc trào ra khó kiểm soát.

Đoạn trích ghi điểm bởi sự hấp dẫn và mâu thuẫn trào phúng. Tiêu đề ‘Hạnh phúc của một tang gia’ đưa ra một cái nhìn hài hước về tang lễ, nơi mà mọi người đều hưởng ứng và thực hiện ý đồ riêng tư. Sự sung sướng của bọn con cháu trước cái chết thậm tệ là rõ ràng, với lễ đưa giấy cáo phó và những chuẩn bị hùng tráng cho đám tang.

Phân tích Hạnh phúc của một tang gia: Góc nhìn hài hước vào kịch trường gia đình thượng lưu

Trong đám tang đó, không ai thể hiện sự đau buồn hay tiếc thương. Ông Vưn Minh thậm chí còn biết ơn vì cái chết của cụ cố Hồng đã đến nhanh chóng nhờ vào sự xuất hiện của Xuân tóc đỏ. Gia đình háo hức chờ ngày đưa tang, không ai buồn bã với cái chết của cụ.

Cảnh đám tang đánh bại vào mắt người xem với sự đua đòi lối sống văn minh rởm. Bằng nghệ thuật châm biếm, đám tang hiện lên như một sự đua đòi về lối sống văn minh rởm, kết hợp với kiểu Ta, Tầu, Tây. Kiệu bát cống, lợn quay, lốc bốc, vòng hoa, và hàng trăm người đi đưa, cùng với cậu Tú Tân chỉ huy và nhà tài tử chụp ảnh, tạo nên một màn trình diễn hoành tráng. Đám tang như một sự kiện lớn, thu hút sự chú ý của thành phố với âm thanh kèn Ta, Tây, Tầu. Tuyết mặc đồ Ngây thơ để khoe vẻ gợi cảm, làm huyên náo cả thành phố. Cùng lố bịch độc đáo, đám ma mang lại hạnh phúc cho những ai đang đau đớn vì kẻ chết.

‘Một đám ma to tát có thể khiến người chết trong quan tài cũng phải mím cười sung sướng, hoặc gật gù cúi đầu!…’

Thấu hiểu sự quan trọng của đám tang, ta nhận thấy một yếu tố quan trọng khác, làm tăng tính to tát của sự kiện – đó là nhóm người đưa tang. Những người này, được coi là thân của cụ cố Hồng, có vẻ chỉ quan tâm đến việc khoe huân chương, huy chương, hay những ‘kiểu râu dài, ngắn, đen, hay lún phún rầm rậm’, hơn là tình cảm đối với người đã mất. Các tầng lớp thượng lưu đều bày tỏ sự cảm động khi nhìn thấy làn da thập thò trên cánh tay và ngực của Tuyết, nhưng đám tang trở thành cơ hội cho họ tỏa sáng, thể hiện bản thân.

Với bàn tay tài năng, Vũ Trọng Phụng châm biếm trưởng giả theo đuổi tiền bạc, như lời ám chỉ những người đua đòi lối sống văn minh rởm, bịp bợm, dâm đãng, đồi bại. Chương ‘Hạnh phúc của một tang gia’ là bức tranh sắc nét về thế giới hỗn loạn của thời kỳ đó, một cách hài hước và mỉa mai.

7. Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, mẫu 7:

Trên thế giới, ít ai có thể cảm thấy ‘sung sướng’, ‘hạnh phúc’, ‘vui vẻ’ khi đối diện với cái chết, trừ khi đó là kẻ thù không đáng trọi chung. Nhưng trong tiểu thuyết Số đỏ, có một ‘tang gia’ lại trở nên ‘hạnh phúc’, khiến nhiều người ‘sung sướng’ và ‘vui vẻ’, điều đó thật lạ và mỉa mai!

Nghệ thuật trào phúng, nói chung, là khám phá và diễn đạt sự kỳ dị, bất thường bằng cách tăng cường, phóng đại chúng để gây cười. Nhà văn ‘rừng cười nhiệt đới’ Vũ Trọng Phụng tỏ ra rất thoải mái khi sử dụng nghệ thuật này trong chương ‘Hạnh phúc của một tang gia’. Thậm chí, ông còn sở hữu nhiều bí quyết làm nên tiếng cười, đặc biệt rõ trong Chương XV của tác phẩm.

Nội dung chương truyện được tóm tắt như sau:

Cụ Tổ Hồng, đã vượt qua tám chục tuổi, sống ‘mãi mãi’ (!) trong sự hâm mộ của đám con cháu chỉ mong ông sớm qua đời. Nguyên nhân là do tên Xuân Tóc Đỏ, một lần tự ái, tố cáo ông Phán Dây Thép là chồng mọc sừng của cô Hoàng Hôn với giá 10 đồng. Sự tố cáo này dẫn đến cái chết của cụ Tổ và một đám tang độc đáo.

Tên chương ‘Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu’ có vẻ phức tạp nhưng thực tế nói lên đầy đủ, truyền đạt tinh thần chương. Nó đồng thời chứa đựng sự bất thường và mâu thuẫn trào phúng, tiên đoán những đối lập giữa ‘phái trẻ’, ‘phái già’ cần hòa giải và kèm theo chuẩn mực đáng tự hào và nên noi theo cho những đám ma khác.

Văn bài Phân tích Hạnh phúc của một tang gia xuất sắc nhất

Chỉ với sáu chữ ‘Hạnh phúc của một tang gia’ đã đủ để chứa đựng bất thường và mâu thuẫn trào phúng trong màn hài kịch của những nhân vật Số đỏ.

Mất đi người thân là nỗi đau không lời bù đắp được, thường được ví von trong thành ngữ dân gian như ‘buồn như cha chết’, ‘buồn như nhà có đám’. Những người chủ nhân của đám tang thường trở thành ‘khổ chủ’. Tuy nhiên, đây là một tang gia đặc biệt: Mọi thành viên trong tang gia đều hạnh phúc, vui vẻ. Niềm hạnh phúc này bắt nguồn từ không khí và bức tranh toàn cảnh của đám tang, đặc biệt là những nhận xét, lời bình hài hước của tác giả như ‘Cái chết làm nhiều người sung sướng lắm’ hay ‘Tang gia ai cũng vui vẻ’.

Hạnh phúc của một tang gia tỏa sáng qua những từ ngữ hài hước của tác giả, tạo nên một không khí độc đáo trong đám tang. ‘Người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê kèn đám ma’ – những chi tiết này được sử dụng một cách sôi nổi trong đoạn trích.

Niềm hạnh phúc, vui sướng của tang gia hiện lên rõ ràng, từ khuôn mặt khôi hài của mỗi thành viên, tạo nên những bức tranh biếm họa độc đáo. Ông Phán-mọc-sừng và ông cháu rể ‘quý hóa’ của ‘người chết’ đều hưởng sung sướng từ kế hoạch hoang dâm, giúp họ đạt được mục đích bất ngờ. Cụ cố Hồng, ông con trai trưởng, sung sướng với danh giá tăng lên nhờ đám tang. Văn Minh, ông cháu ‘chí hiếu’, mơ mơi với hiệu lực của ‘cái chúc thư’ chia. Cả tang gia sung sướng với những lợi ích và sự chú ý từ đám tang.

Cụ cố Hồng, ông con trai trưởng, vô cùng sung sướng với tăng danh giá nhờ đến cái ‘chết thật’ của cha. Ông ấy thậm chí mơ mộng với cảnh cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy. Văn Minh, chồng của cô Văn Minh, đích tôn chủ nhân của ‘cái chúc thư’, sung sướng khi thấy hiệu lực của nó không còn là lý thuyết. Cậu Tú Tân sung sướng với việc được sử dụng máy ảnh mới, còn cô Văn Minh sung sướng với việc chuẩn bị mốt tang phục mới cho đám tang.

Văn Minh, chồng của cô Văn Minh, đích tôn ‘chí hiếu’, chỉ nghĩ đến việc ‘mời luật sư đến chứng kiến cái chết’ của ông nội để làm hiệu lực cho ‘cái chúc thư’. Sung sướng nảy lên khi nó không còn là lý thuyết viển vông. Cả tang gia đều sung sướng với những lợi ích và sự chú ý từ đám tang.

Cậu Tú Tân sung sướng với việc sử dụng máy ảnh mới sau cái ‘chết thật’ của ông nội. Cô Văn Minh sung sướng với việc chuẩn bị mốt tang phục mới cho đám tang. Ông Typn sung sướng với sự lăng xê các mẫu thời trang do ông thiết kế cho đám tang. Mọi người trong tang gia đều hưởng lợi từ ‘chết thật’ của ông nội, tạo nên không khí sung sướng và nhộn nhịp.

Con cháu trong gia đình, từ cảnh sát Min Đơ đến Min Toa, đều hưởng niềm vui riêng khi có đám tang. Họ thấy ‘sung sướng cực điểm’, ‘vì được thuê đám’, và ‘trông nom rất hết lòng’, tận hưởng lợi ích từ cái ‘chết thật’ của cụ tổ.

Sư cụ Tăng Phú thỏa mãn khi ngồi trên chiếc xe, vì anh ta tin rằng mọi người nhìn thấy anh ta đã đánh bại Hội Phật giáo, tạo nên niềm ‘sung sướng và vênh váo’.

Cụ bà hạnh phúc với sự giúp đỡ của ông đốc Xuân và nhận định rằng đám ma là danh giá nhất. Niềm hạnh phúc của cụ bà đến từ việc đám ma được phúng viếng nhiệt tình.

Các ‘giai thanh gái lịch’ Hà thành, nhờ đám tang, họ ‘chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau’. Các quý ông ‘tai to mặt lớn’ tỏ ra hạnh phúc khi được khoe râu ria và trưng bày huân chương, huy chương trên ngực.

Chẳng những vậy, thậm chí ‘ông lão thời đại’ còn nhờ cái sự ‘ra đi kiệt sức’ của mình để trở nên thăng hoa hơn bao giờ hết:

‘Thật sự, một đám tang hùng vĩ đủ sức khiến người đã rời bỏ thế gian cũng không thể giữ được khuôn mặt nghiêm túc, trừ khi muốn gật đầu theo…!’

Niềm hạnh phúc, sự kỳ dị, và cái quái dị này, qua ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, như một nguồn năng lượng lan tỏa rộng lớn và sâu sắc: từ người lãnh đạo cao cấp đến những người lao động cơ bản, từ gia đình đồng quê đến những người xa lạ, từ ‘nạn nhân’ đến những người tham gia ‘hội tang’, từ những kẻ sống sót đến những ‘người đã rời bỏ’. Niềm vui này lại được duy trì mạnh mẽ từ trang này sang trang khác theo diễn biến của buổi tang, từ lúc ‘tổ chức’ đến khi ‘di quan’, ‘họp tang’, và thậm chí khi ‘chôn cất’.

Nhìn vào, ta có thể hiểu rõ hơn niềm hạnh phúc mà sự chết chóc mang lại là vô tận và niềm vui thật sự không chừa cho ai. Vũ Trọng Phụng thực sự là một người thích đùa và biết cách đùa.

2. Trong đám tang này, niềm vui thật sự, nỗi buồn chỉ là bức màn mờ, đồng nghĩa với việc cái đám ma này toàn là sự giả tạo. Nhiệm vụ khó khăn của nhà văn là phải phác họa rõ bức màn giả tạo đó không chỉ là điều dễ dàng mà còn phải làm lộ rõ sự khác biệt giữa cái giả và cái thật.

Dù là sự giả tạo, sự kém cỏi cũng phải cố gắng tái tạo cái thật, mặc dù thường không bao giờ đạt đến mức hoàn hảo. Và từ đó, những mâu thuẫn đã nảy sinh. Cuối cùng, bản chất thật và sự giả tạo cũng phải được tự trình bày. Một buổi tang mà thiếu đi sự đau buồn và lòng thương tiếc chân thành, thì dù có ‘long lanh’, ‘quyền lực’ đến đâu, cũng chỉ là một sự trình diễn hài hước, không thể coi là một buổi tang truyền thống. Mâu thuẫn giữa thật và giả được nhà văn khai thác sâu sắc, nhấn mạnh vào điều bất thường, kỳ cục để gây cười mỉa mai.

Đúng thật, trong thế giới ‘đỏ bền’ với những thứ giả tạo nhiều như cỏ rơm, không có gì là không thể làm giả, làm rởm. Một khi đã có đủ mọi loại rởm; nghệ thuật, thơ ca, khoa học rởm; văn minh ‘Âu hóa’ rởm; tôn giáo rởm,… thì có thể xuất hiện những câu chuyện buồn, lễ tang rởm nhiều đến độ chóng mặt. Tuy nhiên, dưới bàn tay tài năng, sắc sảo của nhà văn, tất cả, cuối cùng, sự thật sẽ trỗi dậy, đúng với bản chất của nó.

Câu văn đầu tiên trong đoạn trích chứa đựng một sự đối chiếu giữa thật – giả cực kỳ tinh tế: ‘Sau ba ngày, ông cụ già đã chết thật.’. Nếu nhìn từ góc độ của tác giả, câu văn này ẩn chứa một nụ cười châm biếm (chết mà vẫn có ‘chết thật’, chết giả?). Nếu nhìn từ góc độ của nhân vật (đám cháu con hiếu thảo), nó mang theo một tiếng reo mừng. Cụ tổ nhất định đã có những lần ‘chết giả’ khiến cho đám cháu con ấy cảm thấy thất vọng, và tang gia đã mong đợi cái ‘chết thật’ này từ lâu. Vì thế, khi ông cụ ‘chết thật’, mọi người đều phải hạnh phúc, sung sướng đến tận cùng. Và, tang gia tràn ngập hạnh phúc, vui vẻ hết cỡ…, điều này đã được mô tả rõ trong chương truyện như là một giai điệu trào phúng.

Châm chọc hơn, trong lúc ‘tiễn đưa’, mọi người cũng có thể bắt gặp những gương mặt u buồn, nhưng đó chỉ là buồn vì những lý do khác nhau. Ông Văn Minh trông như đang buồn vì ông quá bận tâm đến việc ‘thực hiện’ cái ‘lời chúc vừa rồi’. Tuyết buồn ‘lãng mạn’ vì ‘không thấy ‘người đẹp trai’ nào cả’. Các quý ông ‘đeo tai nghe to đùng’ cảm động không phải vì nghe ‘âm nhạc Xuân ngất ngây’, mà là vì nhìn thấy ‘vẻ đẹp trắng trơn’ trên cánh tay và ngực của Tuyết,…

Khi đến lúc hạ huyệt, âm nhạc của tiếng khóc cũng vang lên. Nhưng đó chỉ là một cách để thu hút sự chú ý, không phải là tiếng khóc phát ra từ trái tim, mà chỉ là tiếng khóc nhằm thu hút sự chú ý của mọi người. Cụ Hồng khóc chỉ để mọi người phải nhìn thấy và khen ngợi cây gậy trong tay cụ, trầm trồ nói rằng ‘chàng trai nhỏ đã già đến vậy rồi’. Ong Phán mọc sừng và khóc ‘Hứt…! Hứt…! Hứt…!’, ‘oặt cả người đi’ chỉ để tạo ấn tượng rằng, ông là một chàng rể ‘đội lụa đỏ’.

Khi nói về ‘niềm vui’ của ‘đại gia đình tang lễ’, một mặt, Vũ Trọng Phụng đánh bại sự thật, chủ ý tạo nên sự mơ hồ giữa thật và giả, giống như thực tế xã hội: một vịt vàng nằm chung với vịt đen, mọi thứ rối bời, không rõ ràng.

Tuy nhiên, mặt khác, ông cũng rõ ràng vạch ra những đường ranh giới cần thiết, giữa vàng thau, đen trắng và lật tẩy cái giả một cách khéo léo.

Cả đám tang thực sự chỉ là một vở kịch, một trò chơi lớn, được biểu diễn theo ý muốn của từng người. Cụm từ ‘đúng với ý muốn…’, ‘như ý…’ trong đoạn văn sau được sử dụng một cách hóm hỉnh để làm nổi bật tính chất diễn xuất của đám ma:

‘Cả một thành phố đều nhộn nhịp khen ngợi đám tang, đúng theo ý muốn của cụ cố Hồng. Mọi người chú ý đặc biệt đến những bộ trang phục tang của tiệm may Âu hoá như ý của ông Typn và bà Văn Minh.’,…

‘Ý muốn của cụ cố Hồng’, ‘ý của ông Typn và bà Văn Minh’ đẩy người đọc nhớ đến ý định của cậu Tú Tân thông qua những hành động: ‘đánh bại từng người một, hoặc giữ gậy, hoặc cúi đầu, hoặc uốn cong lưng, hoặc lau nước mắt như thế này, như thế kia,… để cậu ta chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt.’. Vũ Trọng Phụng, như một nhiếp ảnh gia xuất sắc, đã ‘bấm máy’ đúng thời điểm – nghĩa là lật tẩy mọi thứ thành công.

Nói chung, sự lật tẩy của tác giả càng khám phá thì càng hấp dẫn, hài hước. Trong khi đọc chương truyện, cảm giác như không một hành động giả tạo nào của đám con cháu ‘chí hiếu’ – dù nhỏ nhất – thoát khỏi sự quan sát của ông. Nhưng điều đặc biệt thú vị là sự lật tẩy của nhà văn thường tạo nên điều bất ngờ. Nhờ đó, tiếng cười mỉa mai nảy ra tự nhiên, sâu sắc. Ông lật tẩy Văn Minh chồng:

‘Ông đắn đo, luộc tay qua đầu, thỉnh thoảng nhìn chằm chằm, nhưng dần dần trở nên phong cách, vì khuôn mặt của ông hoàn toàn phù hợp với diện mạo của một người trong gia đình đang phải đối mặt với tang lễ.’

Ông tiết lộ bí mật về cô Tuyết:

‘Hôm nay, Tuyết khoác lên chiếc áo dài Voan Trắng – chiếc áo dài mỏng manh, hở nách và nửa vú, được trang trí với viền đen và kèm theo chiếc mũ mấn xinh xắn. Nghe đồn mình đã quá phóng khoáng, Tuyết quyết định diện áo dài Voan Trắng để chứng minh rằng cô không hề mất đi vẻ trinh nữ. Với chiếc nón lá cầu vồng và điếu thuốc, Tuyết thu hút sự chú ý của quan khách một cách khéo léo, trên khuôn mặt tràn ngập vẻ buồn lãng mạn đúng gu mốt của một phụ nữ trong gia đình có đám tang.’

Ông bật mí về ‘các ông tai to mặt lớn’:

‘… Nhiều quý ông tai to mặt lớn đứng ngay gần linh cữu, khi thấy làn da trắng trơn tru trên cánh tay và ngực của Tuyết, tất cả đều bày tỏ sự cảm động hơn cả khi nghe tiếng kèn Xuân ngân nga, tràn ngập tâm hồn.’

Ong bật mí về đám đông:

‘Tất cả đều giữ bộ dáng trang trọng, nhưng sự thật vẫn được thổ lộ khi họ nói chuyện với nhau về cuộc sống gia đình, về ngôi nhà, về chiếc tủ mới, chiếc áo mới. Trong số hàng trăm người tham gia lễ đưa, nửa đều là phụ nữ, hầu hết là những người bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, và nhiều người khác. Thực sự là một bản hòa âm giao thoa giữa giọng hát lịch lãm, với cuộc sống đầy màu sắc, họ nói chuyện, cười đùa, đánh giá lẫn nhau, phê phán nhau, ghen tị và hẹn hò, tất cả kèm theo vẻ mặt buồn bã của những người tham gia đưa tang.’

Ông tiết lộ bí mật về bầy con cháu ‘chí hiếu’:

‘Một đám con cháu đầy lòng hiếu kính chỉ nóng lòng chôn xuống nghĩa trang cho cụ tổ, kể cả xác chết của ông.’

Và đặc biệt, ông khéo léo lật tẩy sự ‘giải quyết hợp đồng’ tinh tế, âm thầm diễn ra giữa ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc Đỏ:

‘Xuân Tóc Đỏ đứng nghiêm túc, cầm mũ, đồng hành cùng ông Phán mọc sừng. Khi cụ Hồng bất ngờ mếu máo và ngất đi, ông này cũng không kém phần lớn tiếng khóc ‘Hứt!… Hứt!… Hứt!…’.

Mọi ánh nhìn đều hướng về ông cháu rể quý hóa ấy.

Ông ta không kìm nổi nước mắt, cố gắng lặng thinh, nhưng Xuân đứng bên cạnh đã kịp thời giúp ông không ngã. Dù cố gắng hết sức, ông vẫn không thể đứng thẳng. Dưới chiếc khăn trắng to tướng, với bộ áo thụng lòe xòe, ông Phán vẫn oặt người, không ngừng khóc.

– Hứt!… Hứt!… Hứt!…

Xuân Tóc Đỏ muốn rút tay ra nhưng bất ngờ cảm nhận được tay ông Phán nắm chặt, đưa cho nó một tờ giấy bạc gấp lại thành hình tứ giác… Nó giữ chặt tay để không ai nhận ra rồi vội vã đi tìm cụ Tăng Phú, giữa đám đông ba trăm người đang chìm trong nỗi buồn và đau đớn vì những sự cố không may.’

3. Ánh nhìn sắc sảo của Vũ Trọng Phụng luôn gặp gỡ với các biểu hiện nghệ thuật tương xứng. Từ cách sắp xếp cấu trúc đến sử dụng từ ngữ của ông đều phản ánh sự mặn mà của trào phúng.

Ở mức cấu trúc, nhà văn thường áp dụng hai phương pháp chủ yếu: a) Kết hợp mô tả chi tiết và mô tả tổng cảnh; b) Tạo ra tình huống căng thẳng để duy trì sự hấp dẫn cho câu chuyện.

Sự kết hợp giữa mô tả tổng cảnh và mô tả chi tiết được thể hiện rất nghệ thuật trong đoạn văn về quá trình ‘cất đám’, ‘đưa đám’ và ‘hạ huyệt’. Sự phối hợp tự nhiên giữa chi tiết và tổng cảnh tạo ra một cảm giác hài hòa và tự nhiên. Mô tả tổng cảnh, ví dụ như: ‘Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy….’, ‘Đám cứ đi…’, ‘Đám cứ đi…’, thường tạo ra ấn tượng về sự lớn lao, trang trọng của đám tang – một hình ảnh ‘gương mẫu’. (Người ta thường đo lường lòng hiếu nghĩa của tang gia dựa trên sự trang trọng và lớn lao này). Trái ngược với điều này, các đoạn mô tả chi tiết và đôi khi là đặc tả, giúp người đọc nhìn thấu từng khía cạnh, hành vi hay chi tiết nhỏ nhất để phát hiện sự giả dối, tính rởm đời, nhố nhăng, kỳ quặc và ‘vô nghĩa lý’ của đám tang này. Rõ ràng là chỉ khi nhìn sâu vào từng góc khuất, từng hành vi nhỏ nhất thì mới thấy được sự thật: ‘Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may.’, hoặc: ‘Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư…’.

Từ góc độ xa, nhà văn tóm tắt được bức tranh ngoại hình với vẻ giống thật, thậm chí rất ‘gương mẫu’, ‘to tát’ của đám tang. Nhưng từ góc độ gần, rất gần, nhà văn lật tẩy cái giả, cái thực chất che đậy bên trong nó: sự bất hiếu, bất nghĩa và thái độ đạo đức giả. Tiếng cười tự nhiên bùng phát từ mâu thuẫn thật-giả này.

Ngoài ra, nhà văn còn sử dụng một cách thông minh kỹ thuật tạo tình huống căng thẳng và duy trì sự căng thẳng cần thiết cho câu chuyện. Ví dụ, sau khi ông già ‘chết thật’, khi đã ‘được quan trên khám đã qua loa’, niềm vui của đám cháu con tưởng như sẽ bùng nổ, nhưng vì một lý do nào đó, sự sung sướng có nguy cơ bị hoãn lại. Ngay lập tức, những phản ứng chỉ trích đối lập giữa ‘phái trẻ’ và ‘phái già’ xuất hiện:

‘Bọn trẻ con bắt đầu la ó rằng bọn già chậm chạp. Tú Tân thì điên người vì đã chuẩn bị mấy cái máy ảnh mà mãi không dùng được. Bà Văn Minh sốt ruột vì không mặc được bộ đồ xô gai mới, cái mũ mấn trắng viền đen – dernières créations. Những thứ hoàn hảo khi kết hợp được lăng-xê bởi tiệm Âu hoá, dành cho những người đang đau đớn vì mất đi người thân. Ông Typn tức giận vì chưa thấy sự sáng tạo của mình được công bố để đánh giá bởi báo chí. Mọi lỗi lầm đều đổ cho ông Văn Minh, không khéo can thiệp khiến mọi thứ phải trì hoãn. Cụ Hồng nhắm mắt kêu đau đớn, cụ bà nghệch ngoạc, vẽ nên những câu chuyện lôi thôi.’

Người trong tang gia phải ‘la ó lên…’, ‘điên người lên…’, sốt ruột’, ‘rất bực mình’, ‘đổ lỗi cho…’, ‘kêu khổ lắm’… Câu chuyện trở nên căng thẳng và kịch tính. Việc trì hoãn lệnh phát phục chỉ một ngày đã làm họ bực dọc, sốt ruột, đau đớn. Nếu ông già này sống thêm, họ sẽ tiếp tục bực dọc, sốt ruột và đau đớn đến đâu. Điều này chỉ làm cho việc có được niềm ‘hạnh phúc’ của ‘tang gia’ trở nên khó khăn hơn.

Ở mức ngôn từ, sự muối trào phúng được cô đặc qua những hình thức nói mỉa.

Đôi khi, nhà văn thể hiện sự mỉa mai thông qua ngôn từ chứa đựng các cụm từ phản nghĩa, ngược đảo. Ví dụ như cụm từ ‘hạnh phúc của một tang gia’ trong tiêu đề đoạn trích, hoặc cụm từ ‘công hiệu đến nỗi họ mất mạng’ trong phần văn nói về ‘thuốc thánh’ tại đền Bia (‘Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, công hiệu đến nỗi họ mất mạng.’).

0 ( 0 bình chọn )

Nguyễn Tất Thành

https://truongnguyentatthanh.edu.vn
Nguyễn Tất Thành - Nơi chia sẻ kiến thức chuyên sâu trong các lĩnh vực từ giáo dục, văn hóa đến kỹ năng phát triển bản thân. Với các bài viết chất lượng, Nguyễn Tất Thành cung cấp nền tảng vững chắc cho người đọc muốn nâng cao hiểu biết và kỹ năng. Khám phá thông tin hữu ích và học hỏi từ những chuyên gia đầu ngành để hoàn thiện bản thân mỗi ngày.

Ý kiến bạn đọc (0)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

Bài viết mới

Xem thêm