Blog

Phân tích ‘Hai Đứa Trẻ’ của nhà văn Thạch Lam

1
Phân tích 'Hai Đứa Trẻ' của nhà văn Thạch Lam

‘Hai Đứa Trẻ’ đứng mặt trội trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Thạch Lam khi xây dựng hai nhân vật đứa trẻ thành công trong cuộc sống khó khăn của phố huyện nghèo. Hãy đọc phân tích về ‘Hai Đứa Trẻ’ để cảm nhận điều đó và thấy rõ sự trân trọng của tác giả đối với ước mơ thay đổi cuộc sống của họ.

Nội dung bài viết:1. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm2. Dàn ý   * Dàn ý 1   * Dàn ý 23. Bài mẫu số 14. Bài mẫu số 25. Bài mẫu số 36. Bài mẫu số 47. Bài mẫu số 5

4 Bài văn mẫu Phân tích ‘Hai Đứa Trẻ’ của nhà văn Thạch Lam

I. Khám phá về tác giả và tác phẩm 

1. Về Tác giả

Thạch Lam (1910-1942), tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình công chức có nguồn gốc từ quan lại. Gia đình Thạch Lam nổi tiếng với truyền thống văn hóa, tất cả ba anh em ông đều là những tác giả nổi tiếng thuộc Tự Lực Văn Đoàn. Ông bắt đầu sự nghiệp báo chí và viết văn sau khi đỗ kỳ thi phần thứ nhất.

Thạch Lam là người độc lập và rất nhạy bén. Với quan điểm về văn chương lành mạnh, tiến bộ và tài năng đặc biệt về truyện ngắn, ông thường sáng tác những tác phẩm không dựa vào cốt truyện, chủ yếu tập trung khám phá thế giới tâm hồn của nhân vật với những cảm xúc tinh tế, mơ hồ trong cuộc sống hàng ngày. Văn của Thạch Lam mang đặc điểm sáng tạo, giản dị mà sâu sắc.

Thạch Lam để lại những kiệt tác như bộ truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); cùng với tùy bút Hà Nội băm sáu phố phường (1943). 

2. Tác phẩm

Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, xuất hiện trong tập Nắng trong vườn. Tương tự những tác phẩm khác của ông, Hai đứa trẻ kết hợp tinh tế giữa hiện thực và trữ tình lãng mạn. 

I. Dàn ý Phân tích Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam (Chuẩn) 

* Dàn ý 1 (Chuẩn):

1. Khai mạc

– Tổng quan về Thạch Lam và tác phẩm Hai đứa trẻ. 

2. Phần chính

a. Phố huyện khi bình minh rơi:

* Phong cảnh:- Âm thanh: Tiếng chuông nhà thờ nhẹ nhàng, tiếng gió thổi lá cây nhỏ nhẹ, hòa quyện cùng tiếng ca líu lo của những đứa trẻ nhỏ… => Tạo nên không khí tĩnh lặng, dịu dàng, tràn ngập niềm tin.- Màu sắc: Sắc hồng nhẹ nhàng của bình minh, làn sương mỏng nâu vàng như bức tranh tươi sáng, tạo nên một hình ảnh huyền bí và ấm áp.

* Nhân vật:- Đứa bé nhặt nhạnh đang ngủ say trong góc phố, khuôn mặt tràn đầy bình yên, ánh mắt trẻ thơ nhìn về phía ánh sáng mới.- Mẹ chị Tí, nụ cười nhẹ nhàng và hạnh phúc, chăm sóc con một cách âu yếm và đầy tình mẫu tử.- Bà cụ Thi, mặc dù già nua nhưng trông thấy hạnh phúc, ngắm nhìn bức tranh buổi sáng mới với niềm tin và hy vọng.- Chị em Liên, trải qua gian khó nhưng vẫn giữ được nụ cười, họ như những bông hoa mọc giữa cánh đồng mênh mông, toả sáng giữa cuộc sống mới.

* Hình ảnh tâm hồn nhân vật Liên trước cảnh bình minh, tình yêu thương:- Hồn nhiên và phấn khích trước sự tươi mới của mỗi ngày, cảm nhận hạnh phúc từ những đám mây bồng bềnh và tia nắng đầu ngày.- Yêu thương và chia sẻ với những người xung quanh, nhìn nhận cuộc sống với niềm tin và lòng biết ơn.

b. Phố huyện khi mặt trời lặn:

* Phong cảnh:- Bóng đêm tràn ngập, đèn đường bừng sáng, ánh đèn mờ ảo tô điểm cho con phố hiên ngang giữa đêm.- Cảnh tượng ấm áp: Những đèn vàng dịu dàng từ những cửa hàng nhỏ, những góc phố nhỏ, làm nổi bật hình ảnh người dân tụ tập, nói chuyện, tạo nên không khí ấm cúng và thân thiện.- Âm thanh: Tiếng cười vang lên, tiếng đàn guitar từ quán cà phê rì rào, tiếng bước chân nhẹ nhàng trên con đường nhỏ… => Tạo nên bức tranh phố huyện yên bình và ấm áp sau cảnh hoàng hôn.=> Một phố huyện hiện đại, sôi động và đầy năng động khi mặt trời lặn.c. Sự hiện diện của đoàn tàu:- Con tàu đưa đến không gian mới, mang theo ánh sáng và tiếng vui từ thế giới khác.- Âm thanh hồi hộp, nhịp điệu của cuộc sống tăng lên khi đoàn tàu xuất hiện, làm nổi bật sự sôi động và năng động.- Đèn sáng trên toa tàu chiếu sáng đường ray, tạo nên hình ảnh rực rỡ và cuốn hút mọi ánh nhìn.- Sự xuất hiện và biến mất nhanh chóng của đoàn tàu làm cho phố huyện trở lại với bình yên, nhưng trong lòng mỗi người vẫn còn lưu luyến những khắc khoải và hoài niệm về thế giới đầy sắc màu và hứng khởi. 

d. Cuộc sống sau đoàn tàu:- Phố huyện trở lại với vẻ đẹp yên bình, hòa mình trong bóng tối của đêm dài.- Tiếng những bước chân nhỏ nhẹ, tiếng cười và nụ cười hạnh phúc trên khuôn mặt những người dân khi họ quay trở lại những công việc hàng ngày.- Những cửa hàng nhỏ lung linh ánh đèn, tô điểm cho con phố như những viên ngọc lấp lánh giữa đêm tối.=> Cuộc sống trở lại với vẻ đẹp bình yên, nhưng trong lòng mỗi người vẫn đọng lại một kí ức về sự xuất hiện ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa của đoàn tàu, làm tươi sáng thêm mỗi khoảnh khắc trong đêm dài của họ.

e. Đoàn tàu biến mất:- Bức tranh cuộc sống trở lại với vẻ bình yên, hòa mình vào bóng đêm đậm sâu.- Âm thanh trở nên nhẹ nhàng, nhưng vẫn còn vang vọng những giai điệu vui tươi và nhịp điệu hối hả của đoàn tàu đã qua.- Mỗi người dân trở về với cuộc sống hàng ngày, nhưng trong lòng họ vẫn còn lưu giữ những cảm xúc và ký ức về khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng đong đầy ý nghĩa mà đoàn tàu đã mang đến.- Phố huyện biến mất trong bóng đêm, nhưng sự hồi hộp và phấn khích vẫn còn đọng lại trong không khí, để lại niềm tin và hi vọng trong trái tim mỗi người.

3. Tổng kết

Chia sẻ nhận định cá nhân về tác phẩm.

* Phân chia ý phân tích Hai đứa trẻ 2 (Chuẩn)

1. Giới thiệu:

–     Giới thiệu về Thạch Lam và tác phẩm Hai đứa trẻ

2.  Nội dung chính:

a.  Hình ảnh phố huyện biểu tượng cho xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc

* Bức tranh thiên nhiên khi chiều tà đến-   Giao thoa hình ảnh và âm thanh của thiên nhiên:+ Hình ảnh: ‘Bầu trời phía tây …tàn’: vẻ đẹp rực rỡ, lộng lẫy của quê hương xứ sở.+ Âm thanh: tiếng trống thu không, ‘tiếng ếch nhái …đưa vào’, tiếng muỗi vo ve => tạo nên bức tranh hòa âm của buổi chiều quê yên bình.=>Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, êm đềm, bình yên, chứa đựng tâm hồn sâu sắc của quê hương xứ sở  –  nhưng cũng mang theo nét đau thương, sự tĩnh lặng đến thâm trầm.

–    Hình ảnh chợ tàn:+ Chợ quê: từng là điểm tập trung sôi động, nhộn nhịp, đặc trưng của đời sống quê hương+ Chợ ở đây: ‘chợ họp đã vãn …cũng mất’, ‘trên đất chỉ còn rác rưởi …lá mía’ – cảnh chợ tấp nập trở thành nơi tàn tạ=> Hình ảnh phố huyện đầy đau lòng, thê lương, cuộc sống đói nghèo của một miền quê.

–   Tâm trạng của Liên: nỗi buồn chi phối bởi tâm hồn trong sáng, nhạy cảm+ Tình cảm gắn bó với quê hương: ngửi thấy ‘một mùi âm ẩm …quê hương này’.+ Qua bức tranh ngoại cảnh: chị buồn, ‘không hiểu sao .., ngày tàn’, ‘cái buồn của buổi chiều …của chị’.=> Nỗi buồn của một cô gái mới lớn với tâm hồn mỏng manh, nhạy cảm, mơ hồ mà vô cùng thấm thía.=> Đây còn là nỗi buồn của Thạch Lam trước xã hội đương thời, một xã hội ngưng đọng và tàn tạ.

* Cuộc sống con người nơi phố huyện và những kiếp người tàn:-  Hình ảnh những đứa trẻ:+ Trên nền chợ tàn, những đứa trẻ nghèo ‘cúi lom khom …để lại’ => Cuộc sống sớm tàn lụi, sống trên rác rưởi, gieo hy vọng trên đống rác của nơi chợ tàn => Cuộc đời tăm tối, bế tắc.+ Cảm xúc của Liên: Liên động lòng thương chúng nhưng ‘chính chị cũng…chúng nó’ => sự thương xót nhưng bất lực, đây còn là nỗi xót thương của Thạch Lam với người lao động.

–  Cảnh đời của chị Tí:+ Cuộc đời của chị là chuỗi ngày vất vả và khó khăn: Ngày: đi mò cua bắt ốc, tối: mở hàng nước bán đến tận khuya=> Hình ảnh của người phụ nữ, những kiếp thân cò lặn lội, tảo tần (liên hệ Thương vợ – Tú Xương).+ Quán nước của chị: nhỏ nhoi, còm cõi mà chị có thế đội, xách, vác trong một lần ‘đội cái chõng … cửa hàng của chị’.+ Hàng của quán chị: Bát nước chè xanh, điếu thuốc lào+ Khách: bác phu, chú lính lệ, …=> họ đều là những phận nghèo như chị mà chỉ ‘cao hứng vào hàng chị’ nên chị cũng chẳng mấy khi có tiền.+ Kết quả: ‘chả kiếm được bao nhiêu’, ‘ối chao, sớm …ăn thua gì’=> tiếng than thở đầy buồn tủi, tiếng thở dài ngao ngán cho cảnh đời bế tắc.=> Cuộc sống xoay quanh, đơn điệu, tối tăm, hy vọng về tương lai, một cuộc sống không có ý nghĩa.

–  Cảnh đời của chị em An Liên+ Bắt đầu với sự kiện thầy Liên mất việc => gia đình lâm vào khó khăn, chấp nhận chuyển về quê.+ Gia đình Liên trở về quê, mẹ bắt đầu kinh doanh hàng xáo, chị em Liên quản lý quán tạp hóa.+ Quán tạp hóa nhỏ bé của chị em Liên: vắng vẻ, nghèo nàn, chỉ có vài mặt hàng cơ bản như diêm, xà phòng, rượu, khách đến cũng chỉ mua ít, thậm chí nửa bánh xà phòng.=> Tạo hình ấn tượng về nghèo đói tại phố huyện, đồng thời làm nổi bật sự bế tắc trong cuộc sống của gia đình Liên.+ Kết quả: ‘ngày phiên cũng …thua gì’=> tình trạng khó khăn vẫn tiếp diễn, không hề có dấu hiệu thay đổi.=> Cuộc sống tẻ nhạt, mệt mỏi, sáng làm việc, chiều thu dọn dẹp.=> Cuộc sống trở nên đơn điệu, không niềm vui, thiếu hy vọng vào tương lai, thậm chí cả niềm vui của tuổi thơ cũng biến mất.

–   Cảnh đời của bác Siêu, bác xẩm, cụ Thi điên (điểm nhấn biểu tượng, tả chân thực và mang tính biểu tượng.+ Bác Siêu: kinh doanh gánh phở rong: sản phẩm xa xỉ, ít người mua, thu nhập ít => luôn ế khách. Hàng ngày, bác lúi húi xách gánh vào làng khi đêm buông xuống.=> Hình ảnh bác Siêu tập trung vào niềm hi vọng tương lai nhưng sự tàn lụi vẫn âm thầm hiện hữu.+ Bác xẩm: người mù, trình diễn nghệ thuật hát rong => sống xa lạ, tận dụng gầm cầu, lề đường làm chỗ ở. Mọi tài sản của bác chỉ là chiếc chiếu, chiếc thau sắt và cây đàn bầu. Hình ảnh đứa con bò ra khỏi chiếu => biểu tượng cho một tương lai tiếp tục tối tăm, cuộc sống mù mịt.+ Bà cụ Thi điên: tượng trưng cho kiếp người tàn. Người già, tinh thần không ổn định và nghiện rượu, kết thúc bằng tiếng cười => hình ảnh đau lòng của một cuộc sống tăm tối.=> Toàn bộ bức tranh về phố huyện được Liên quan sát qua cái nhìn đầy xót thương, với những hình ảnh đời sống tàn khốc và tăm tối. Đó là cuộc sống với đau khổ về vật chất, đói nghèo cũng như những khổ nạn tinh thần, những cuộc sống tẻ nhạt, vô nghĩa, không có niềm vui, không có hy vọng tương lai.=> Bức tranh nhìn nhận thông qua con mắt của Liên, đồng thời truyền đạt sự gần gũi giữa nhà văn và người lao động.

* Bức tranh về phố huyện kết thúc bằng cảnh đêm tối- Là đêm hạ:+ Gió mát, ‘ bầu trời …thần nông’ => hình ảnh tươi đẹp, quen thuộc của đêm hạ.+ Mặt đất phủ bởi bóng tối ‘tối hết cả …hơn nữa’ => bóng tối bao trùm phố huyện. Bóng tối dày đặc, thậm chí cả tiếng trống cũng ‘chìm vào bóng tối’.=> Tượng trưng cho xã hội thực dân thời Pháp thuộc u ám, ngột ngạt.-    Cuộc sống của con người trong phố huyện: như những hột sáng, khe sáng, đốm sáng, chấm sáng => le lói, nhỏ nhoi, lạc lõng => ý nghĩa về cuộc sống tăm tối, không ý nghĩa.=> Tâm trạng của Liên (Thạch Lam): Nỗi buồn uất ức trước cuộc sống tối tăm, không có ánh sáng, không có hy vọng. Nhìn lên bầu trời với hàng ngàn ngôi sao lấp lánh, Liên nhận ra một thế giới ‘xa lạ, bí ẩn’, sau đó quay đầu nhìn về ‘vùng sáng quen thuộc …chị Tí’ là thế giới tăm tối, không ý nghĩa của chị.

* Kết luận:-   Bức tranh về phố huyện: Tổng hợp toàn cảnh xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, một không khí u ám, cảm giác tù túng, mất tự do, con người sống trong bóng tối, mệt mỏi, không có ý nghĩa.-     Nghệ thuật: Thạch Lam sử dụng hiện thực đã trải qua để tạo nên bức tranh về phố huyện. Cùng với đó là sự lan tỏa của tình yêu quê hương.-    Bức tranh được diễn tả qua cơn lưng của thời gian từ chiều tà đến đêm khuya, thể hiện sự biến động của tâm trạng Liên. Thạch Lam xây dựng bức tranh về quê hương với vẻ đẹp uyên bác, xứ sở mang theo tình yêu quê hương và lòng thương cảm với những số phận tàn khốc, đồng thời truyền đạt sự phê phán xã hội không bảo vệ quyền sống của con người.

b. Khoảnh khắc chờ đón tàu đêm:

* Lý do đằng sau sự chờ đợi:-   Mặc dù Liên và An đã ‘buồn ngủ ríu cả mắt’ – họ chờ đợi không chỉ để bán hàng như mẹ dặn mà còn vì lí do khác ‘bởi muốn … đêm khuya’.=> Mong đợi một cuộc sống mới, khỏi bị đói nghèo, thoát khỏi bóng tối.

*. Sự biến động của tâm hồn:-  Trước khi tàu đến: những khoảnh khắc chờ đợi đầy hồi hộp:+ Qua cả ngày dài khát khao, khi bác Siêu báo tin ‘Đèn ghi …kia rồi’ – niềm vui bùng nổ khi ước mơ trở thành hiện thực.+ Liên: tất cả giác quan hồi sinh khi nghe ‘tiếng còi từ xa vọng lại’ thoảng trong gió, tiếp theo là tiếng xe rít vào ghi rồi tiếng hành khách khe khẽ, khói trắng bốc lên => những dấu hiệu cho thấy tàu đang gần.+ An: buồn ngủ mắt chảy nước, nhưng vẫn cố dậy khi tàu tiến lại.=> Chuyến tàu mang lại cái gì đó hoàn toàn mới so với cuộc sống bình thường ở phố huyện, niềm tin và hy vọng với ánh sáng rạng ngời chiếu sáng những số phận tàn ở đây.=> Tâm hồn Liên cũng thay đổi, chị không còn buồn bã mà thay vào đó ‘yên bình …không thể giải thích’=> chính chị cũng không hiểu tại sao lại chờ đợi chuyến tàu này.

–     Khi chuyến tàu đã đến:+ ‘Ngọn lửa …. xa xôi’: Khi tàu ở xa, âm thanh và ánh sáng trở nên sống động hơn cả ngày dài ở phố huyện.+ Liên đánh thức An ‘nhỏm dậy’: sự phấn khích khi khao khát biến thành hiện thực, như nhìn thấy thứ quý giá.+ Tàu đến với ‘tiếng còi …tiến tới’, ‘các toa đèn …sáng’ => chuyến tàu mang đến sự sôi động, náo nhiệt, với ánh sáng tươi mới, rực rỡ, làm tan đi cái tĩnh lặng, trống trải của phố huyện, đồng thời mang đến nguồn năng lượng mới, sức sống tràn ngập.=> Đó là thế giới kỳ diệu mà những kiếp người ở đây mong mỏi, chờ đợi.-    Chuyến tàu mang đến ánh sáng khác biệt ‘một thế giới khác hẳn … bác Siêu’ => Ánh sáng của sự phồn thịnh, lộng lẫy, của niềm vui và hy vọng. nó tỏa sáng trong từng cuộc sống tàn khốc là một niềm tin vào một thế giới mới và tương lai tươi sáng hơn, ánh sáng le lói hiện ra mỗi ngày tại đây.

c. Tổng kết:-  Bức tranh về phố huyện do Thạch Lam vẽ nên rất chân thực.-     Nghệ thuật hiện thực hóa tâm lý nhân vật, đặc biệt là cảnh chờ đợi chuyến tàu đêm, rất xuất sắc.-  Thể hiện sự thấu hiểu và đồng cảm của tác giả với những số phận khó khăn, quẫn trí tại phố huyện nghèo.

3.  Kết luận:

–  Tái khẳng định vấn đề

II. Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam 

1. Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, mẫu số 1 (Chuẩn)

Trào lưu văn học lãng mạn là một trong những xu hướng nổi bật trong giai đoạn 1930 – 1945, và Thạch Lam đóng vai trò quan trọng trong trào lưu này. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” từ tập “Nắng trong vườn” là một kiệt tác nghệ thuật, thể hiện phong cách đặc trưng của tác giả.

Toàn bộ câu chuyện được kể qua góc nhìn của nhân vật Liên – một thiếu nữ trẻ. Điều này tạo nên sự khách quan và làm cho bức tranh cảnh vật cùng với tâm trạng của Liên trở nên sinh động, đậm chất cảm xúc. Truyện diễn ra trong không gian một phố huyện nghèo trước thời kỳ Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt là từ chiều tối đến đêm khuya – khoảng thời gian có ý nghĩa lớn trong văn học.

Mở đầu là bức tranh phố huyện vào lúc chiều tàn, với âm thanh của tiếng trống thu và tiếng ếch nhái. Bức tranh được mô tả với sắc màu rực rỡ, từ đỏ lửa của phương Tây đến ánh hồng của than sắp tàn. Tác giả tận dụng âm thanh và màu sắc để tạo nên một bức tranh sống động, như một bản hòa nhạc đầy cảm xúc của chiều tà nơi quê hương Việt Nam.

Phân tích Hai đứa trẻ để hiểu sâu về tính thơ của truyện ngắn

Tác giả tạo nên bức tranh cảnh vật phố huyện với vẻ thơ mộng, gần gũi, và sinh động, đồng thời cũng hé lộ những đau thương và cô đơn. Qua mô tả của chợ tàn và hình ảnh con người, Thạch Lam khéo léo diễn đạt cuộc sống cứng nhắc nơi đây.

Hình ảnh của Liên, là người chị trách nhiệm và tận tụy, làm nổi bật khía cạnh khó khăn của cuộc sống nghèo khổ. Tâm trạng của Liên thể hiện qua buổi chiều buồn bã, và sự nhạy cảm trước hoàn cảnh khó khăn của đứa trẻ nghèo. Nhà văn Thạch Lam kết hợp tốt giữa tả thực và tâm trạng, đem đến hình ảnh sống động và cảm xúc sâu sắc.

Mô tả tinh tế bức tranh phố huyện lúc đêm khuya với sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng, Thạch Lam chấm điểm cuộc sống khó khăn của những người nghèo, với những hình ảnh của gia đình bác Siêu, gia đình bác Xẩm, và chị Tí. Liên liên kết quá khứ sung túc ở Hà Nội với khao khát và chờ đợi chuyến tàu đêm, tạo nên lớp phủ tinh tế cho câu chuyện.

Cuối cùng, kết thúc tác phẩm là hình ảnh chờ đón tàu, gợi cảm và đậm nét triết học. Mỗi đêm, dù khuya đến đâu, người dân phố huyện nghèo vẫn luôn đón chờ chuyến tàu đêm với niềm háo hức. Bằng những chi tiết như lời An dặn Liên trước khi đi ngủ “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé” hay tiếng reo khi tàu đến, tác giả tạo nên không khí hứng khởi của sự chờ đợi.

Tóm lại, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, với văn phong nhẹ nhàng và không cốt truyện, khéo léo miêu tả tâm lý nhân vật, thể hiện lòng thương, cảm thông của tác giả đối với cuộc sống nghèo khó ở phố huyện. Tác phẩm là sự kết hợp độc đáo giữa thực tế và tâm lý, tạo ra hình ảnh sống động và tận cùng cảm xúc.

2. Phân tích Hai đứa trẻ, mẫu số 2 (Chuẩn):

Thạch Lam, như nhiều nhà văn nổi tiếng khác, đặt nền móng vững chắc cho mình trong việc viết về thực tại xã hội trước năm 1945. Ông không chỉ đơn thuần là nhà văn, mà còn là người bảo vệ tinh thần và làm đẹp thế giới xung quanh. Với lối viết tinh tế, nhạy bén, ông mô tả số phận những con người nhỏ bé dưới bóng tối nghèo đói, đồng thời tôn vinh niềm hy vọng và khao khát thoát khỏi khốn khổ.

Thời thơ ấu của Thạch Lam đánh dấu bằng những ký ức khó khăn, cha ông, một trí thức tiểu tư sản, mất việc vì biến cố xã hội, buộc gia đình chuyển từ Hà Nội về Cẩm Giàng, Hải Dương. Cuộc sống cơ cực đẩy Thạch Lam và chị em vào cuộc sống khó khăn, hình ảnh phố huyện xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của ông, đặc biệt là trong ‘Hai đứa trẻ’ với bức tranh tối tăm, nghèo nàn, và hình ảnh độc đáo của Liên để lại ấn tượng sâu sắc.

Phân tích truyện ngắn ‘Hai đứa trẻ’ của Thạch Lam – những cái nhất

Bức tranh phố huyện trong tác phẩm mở ra từ chiều tối đến nửa đêm, đặc biệt, cách Thạch Lam mô tả chiều tàn làm nổi bật nét lãng mạn, buồn bã, tạo nên cảm giác u ám. Thạch Lam tận dụng âm thanh như tiếng trống buổi chiều, tiếng ếch, tiếng muỗi và tiếng chõng tre, tạo ra bức tranh âm thanh riêng biệt cho phố huyện nhỏ bé, nghèo khó. Hình ảnh hoàng hôn với ánh mặt trời cuối cùng rực rỡ làm nổi bật sự tuyệt vọng và tiếc nuối về sự kết thúc. Mùi ‘âm ẩm bốc lên’ làm tăng thêm hình ảnh ẩm thấp, bẩn thỉu, chán chường của phố huyện nghèo.

Trong những hình ảnh của những cuộc sống khó khăn, Thạch Lam chọn Liên, một cô bé 9 10 tuổi, làm nhân vật chính. Mặc dù sống trong nghèo đói, Liên trưởng thành sớm và có tâm hồn nhạy cảm, yêu thương con người. Điều đặc biệt là cách Liên nhìn nhận cảnh chiều tàn tại phố huyện, làm nổi bật sự trưởng thành khác biệt của chị. Liên không chỉ nhạy cảm với nỗi buồn của quê hương mà còn hiểu rõ mùi đất quê, thấu hiểu và yêu thương nó. Sự tinh tế của Liên thể hiện ở cách chị quan tâm và yêu thương người khác, từ mẹ con chị Tí đến bà cụ Thi điên và mấy đứa trẻ ven xóm chợ. Sự tội nghiệp và ái ngại trước những số phận khốn khổ được thể hiện rõ trong từng dòng văn của Liên.

Bức tranh phố huyện trong đêm không có nhiều điểm nhấn như cảnh ngày tàn, nhưng vẫn truyền đạt sâu sắc sự ảm đạm, tối tăm và u buồn. Thạch Lam tận dụng cách miêu tả bóng đêm để tạo nên không gian u tối, nơi ánh sáng yếu ớt không đủ để soi sáng con đường đời. Bóng đêm mịt mùng là nền tốt để làm nổi bật những kiếp người tàn, từ vợ chồng bác Xẩm đến mẹ con chị Tí, bác Siêu và chị em Liên. Các nguồn sáng yếu ớt chẳng làm thay đổi được cái tối tăm vô tận. Trong bóng đêm, ánh sáng trong tâm hồn con người vẫn hiện diện, mong đợi một cái gì tươi sáng, là hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, ước mơ thoát ra khỏi bóng tối.

3. Đánh giá Hai đứa trẻ, mẫu số 3 (Tiêu chuẩn)

Khi nói đến Thạch Lam, chúng ta liên tưởng đến những câu chuyện ngắn, không chỉ là câu chuyện mà còn là những tác phẩm truyền cảm xúc sâu sắc, dịu dàng. Những tác phẩm của ông luôn kết hợp hiện thực và lãng mạn, tạo nên những trải nghiệm đầy cảm xúc và tinh tế. Hai đứa trẻ là một minh chứng rõ nét cho tấm lòng của Thạch Lam dành cho cuộc sống và những người nghèo khổ.

Câu chuyện Hai đứa trẻ diễn ra ở một phố huyện nghèo, nơi mà Liên và An, hai nhân vật chính, phải đối mặt với khó khăn. Khi bố Liên mất việc, chị em phải chuyển đến khu phố này và sống trong một quán tạp hóa nhỏ gần đường tàu. Trong khu phố đó, cuộc sống nghèo khổ và những người dân với những ước mơ nhỏ bé, mong chờ một chút ánh sáng, tạo nên bức tranh cảm động.

Đầu truyện, Thạch Lam mô tả một bức tranh đẹp, là hình ảnh đặc trưng của phố huyện trong xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Bắt đầu với cảnh thiên nhiên dần chìm vào hoàng hôn, âm thanh sôi động của phiên chợ tàn tạo nên một không khí đặc biệt.

Mở ra trước mắt là cảnh hoàng hôn hiên lên trên con phố huyện nghèo, bóng tối bao trùm dần. Liên, cô gái trẻ, truyền đạt mọi diễn biến bằng ánh nhìn và tâm trạng tinh tế. Bức tranh hoàng hôn với ‘Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn’ mở ra vẻ đẹp lôi cuốn, rạng ngời. Hoàng hôn thu hút tinh khôi nhất của linh hồn quê hương. Mặt trời khuất bóng, ‘lũy tre làng trước mặt đen lại’ báo hiệu đêm đen. ‘Tiếng trống thu không’ và ‘tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng’ vang lên trong không khí là những âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam xưa.

Bài văn Phân tích Hai đứa trẻ có dàn ý

Bức tranh của Thạch Lam đẹp, êm đềm, hòa mình vào vẻ đẹp của chiều quê hương. Thiên nhiên không chỉ hùng vĩ mà còn tĩnh lặng, chứa đựng linh hồn quê hương, xứ sở. Tuy nhiên, sự tĩnh lặng ấy lại mang theo sự đơn điệu, nhàm chán. Mây hoàng hôn rực rỡ nhưng chỉ là thoáng qua, chỉ là áng mây cuối ngày rồi tắt. Tiếng trống thu không buồn buồn, vô hồn. Tất cả đẹp đẽ chỉ thoáng qua phố huyện này rồi tan biến.

Trong khung cảnh đẹp, một phiên chợ tàn hiện lên với rác rưởi và kiếp người tàn. Khác với phiên chợ sôi động, ở đây chỉ còn ‘trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía’. Thạch Lam nhấn mạnh vào hình ảnh của một phiên chợ mất hồn, chứng kiến sự tan biến. Chợ chỉ còn lại ‘một mùi âm ẩm bốc lên’, là hiện thân của phố huyện này, tàn tạ, nghèo đói đến thế lương.

Đoạn văn mô tả bức tranh thiên nhiên ở phố huyện của Thạch Lam là một hình ảnh phong phú, tinh tế, truyền đạt cảm giác bình yên của miền quê. Trong khung cảnh tự nhiên ấy, hiện lên phiên chợ quê nghèo, tàn tạ, là bức tranh sống động về cuộc sống khó khăn tại phố huyện đó.

Tâm trạng của Liên, cô gái trẻ, trở thành nỗi buồn ‘thấm vào tâm hồn thơ ngây của chị’. Dù mới đến với phố huyện, Liên đã hiểu và gắn bó với nó, cảm nhận mùi quê hương và buồn chiều quê. Thạch Lam tận dụng tâm hồn nhạy cảm của Liên để truyền đạt sự mong manh và buồn bã trước cuộc sống nghèo nàn của phố huyện. Có lẽ, tâm hồn trong sáng của Liên giúp Thạch Lam thể hiện nỗi buồn của mình trước xã hội đầy khó khăn.

Cảnh thiên nhiên trong bức tranh của Thạch Lam là một bản tình ca dịu dàng, làm người đọc hòa mình vào không khí bình yên, nhưng cũng đồng thời gợi lên cảm giác hoang tàn, buồn bã. Sự nặng lòng đó chủ yếu đến từ cuộc sống khó khăn của những con người nơi phố huyện – những kiếp đời tàn.

Cuộc sống khốn khó được thể hiện qua hình ảnh của đứa trẻ đang nhặt rác tại chợ tàn. Những đứa trẻ phải sống, tìm kiếm trong những gì người khác bỏ đi. Thạch Lam miêu tả chân thực hình ảnh những đứa trẻ này ‘cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi’, nhưng đầy sự chăm chú, tận hưởng từng phút giây bên những thứ họ tìm thấy. Hình ảnh của chúng là biểu tượng cho số phận đen tối, ngột ngạt và bế tắc, không có tương lai nơi phố huyện.

Nhìn những đứa trẻ nghèo đói ở chợ, Liên, nhân vật chính, cảm thấy đau lòng. Chị thương những đứa trẻ, nhưng không thể giúp đỡ vì chị cũng khó khăn. Cảm xúc của Liên có thể là tâm trạng của Thạch Lam khi chứng kiến cuộc sống khó khăn, thương xót những người nghèo lao động.

Kiếp sống đau khổ, cơ cực không chỉ hiện diện ở đứa trẻ mà còn sâu sắc trong cuộc sống của chị Tí – một mảnh đời bất hạnh ở phố huyện tối tăm. Chị Tí, đeo chõng, tay mang đồ đạc, lao động vất vả để kiếm sống. Ngày, chị bắt tép, đêm làm nước. Hình ảnh của chị Tí đặt ra nhiều suy nghĩ về đời sống khó khăn tại phố huyện.

Chị Tí, qua ánh nhìn của Liên, là hình ảnh của người phụ nữ lao động, vất vả với chõng đầy đồ đạc. Ngày làm tép, đêm bán nước từ chiều đến tận đêm. Hình ảnh này gợi nhớ đến bài thơ Thương vợ của Tú Xương: ‘Thân cò lặn lội nơi quãng vắng’.

‘Chị Tí, với chõng, đều mang theo bao gánh trên đầu, bày bán từ sáng sớm đến khuya tối. Hình ảnh này chính là hiện thực đau lòng, đầy cảm xúc của cuộc sống người lao động nghèo, đối diện với sự khó khăn và kiếm sống qua từng ngày.

‘Mặt nước đò đông lạnh lẽo’

Kiếp sống đau khổ của những thân cò không ngừng bám theo sóng biển, đấu tranh vất vả giữa đòi và nghèo.

Quán nước của chị Tí mở từ tối đến đêm, nhưng nó nhỏ nhoi, chỉ đủ chị đeo, vác lên một lần. Bán đủ món, chỉ là bát nước chè xanh, điếu thuốc lào. Dù cố gắng sắp xếp, khách vào quán ít. Cuộc sống nghèo khó làm chị thở dài, nhưng ánh sáng và hy vọng không nảy mầm. ‘Sớm hay muộn cũng chả kiếm được bao nhiêu’, lòng chị nặng nề nói với Liên.

Tiếng thở dài đau lòng là lời than phiền về cuộc sống bế tắc, nghèo đơn điệu của chị Tí. Một cuộc đời khó khăn, tối tăm và thiếu hy vọng.

Thấu hiểu cuộc đời những đứa trẻ nghèo và chị Tí, nhưng An và Liên cũng không thoát khỏi số phận khó khăn. Họ quay về sống ở phố huyện nghèo với một quán tạp hóa nhỏ, trong khi cha mẹ vẫn cần phải vật lộn kiếm sống.

Cuộc sống của An và Liên đầy khó khăn, và sự kiện thất nghiệp của thầy Liên khiến gia đình họ gặp khó khăn. Họ chọn quay về quê, nhưng cuộc sống ở đây không khác biệt nhiều. Quán tạp hóa của chị em nhỏ xíu, nhưng không khác gì gánh hàng của chị Tí, nghèo nàn và chẳng có nhiều khách. Cuộc sống khó khăn, tăm tối, và bế tắc là điều luân phiên trong câu chuyện.

Cuộc sống khó khăn, bế tắc không chỉ là của chị Tí mà còn của An và Liên. Dù cố gắng bán hàng, kết quả vẫn là ‘ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì’. Cuộc sống cứ trôi qua đơn điệu, chỉ là sáng dọn hàng ra, tối dọn hàng vào. Liên và An ở tuổi phải hưởng thụ niềm vui, nhưng cuộc sống buộc họ phải loanh quanh trong quán tạp hóa nhỏ này. Nghèo nàn đã cướp đi tuổi thơ, niềm vui của họ.

Trong từng câu chữ, cảm xúc của Liên – cô gái mới lớn nhạy cảm – hiện lên rõ. Liên chứng kiến cuộc sống khó khăn của chị Tí và gia đình mình, mang theo những cảm xúc riêng biệt. Chị thương cho cuộc sống khó khăn của chị Tí, đồng thời tự thương thân với cuộc sống của mình. Câu chuyện chứng minh sự bất công và khó khăn của cuộc sống, và cảm xúc đầy xúc động được Thạch Lam truyền đạt rất tốt.

Trong cái phố huyện nhỏ đó, không chỉ một hay vài cảnh đời đau lòng, những số phận bất hạnh xuất hiện khắp nơi. Cái nghèo ập đến họ như bóng tối che phủ. Trong bóng tối ấy, cảnh đời khốn khổ lại hiện hình nhiều hơn. Bác Siêu, bác xẩm, và bà cụ Thi điên – họ chỉ thoắt ẩn hiện qua vài dòng tả thực nhưng để lại nhiều cảm xúc khó diễn đạt.

Bác Siêu với hình ảnh đòn gánh phở rong trên vai. Gánh phở của bác là một món quà xa xỉ trong môi trường nghèo cơ huyện. Dù ít khi có khách, bác vẫn nhóm lửa niềm hy vọng vào mỗi đêm. Ánh lửa le lói giữa bóng tối có lẽ là dấu hiệu cho sự sống sót, cho một chút ánh sáng trong cuộc sống khó khăn của bác. Nhưng đến khi bóng tối ập đến, niềm hy vọng lại tan biến, bác trở về kiếp người tàn.

Ngoài bác Siêu, gia đình bác xẩm mù cũng là một số phận đau lòng ở phố huyện này. Bác, mù từng gánh cả gia đình bằng nghệ hát rong. Gia tài của họ chỉ là manh chiếu, thau sắt và đàn bầu. Mặc dù có điều kiện hơn An Liên, gia đình bác vẫn sống giữa nghèo đói và bất hạnh. Đứa trẻ mới sinh trong hoàn cảnh khó khăn đó, nghịch nhặt rác bẩn bên đường, trở nên biểu tượng cho thế hệ tương lai bị mòn bởi nghèo đói và tăm tối.

Cuối cùng, Thạch Lam mô tả hình ảnh bà cụ Thi điên, biểu tượng của sự tàn tạ và u tối. Bà, già cả, điên, nghiện rượu – đó là những điều mọi người biết về bà. Bà chỉ đến quán để mua rượu, uống một hơi rồi ra về. Hình ảnh bà cụ rời đi dần trong bóng tối với tiếng cười khanh khách khiến người ta phải suy ngẫm về số phận bi đát của con người. Cuộc sống khó khăn và nghèo nàn khiến họ sống trong bóng tối suốt cuộc đời.

Toàn bộ khung cảnh phố huyện hiện ra qua đôi mắt của Liên, nơi chứa đựng những cảnh đời đau lòng, tăm tối và cảnh ngộ thăng trầm. Cuộc sống này đầy nỗi buồn và bi kịch, từ khía cạnh vật chất, đói kém đến tinh thần với những kiếp sống quằn quại, đơn điệu, mệt mỏi, vô nghĩa, tù túng, ngột ngạt, không biết nơi nào tìm thấy niềm vui, hy vọng cho tương lai. Những cuộc đời ấy thật là vô ý nghĩa!

Khám phá bức tranh phố huyện qua đôi mắt của nhân vật Liên – người chia sẻ cùng cảnh ngộ với những số phận tàn tạ. Đằng sau Liên là Thạch Lam, người đã làm mờ đi ranh giới giữa một người sáng tạo và những người lao động nghèo, để chia sẻ cảm xúc và hiểu biết với họ.

Thạch Lam viết về người lao động nghèo, nhưng anh ta nhấn mạnh vào đau thương tinh thần của họ, những cuộc sống mòn mỏi và thiếu ý nghĩa. Chỉ khi họ tỉnh thức về quyền sống và tự do cá nhân, Thạch Lam mới cảm thông sâu sắc với những cuộc sống vô nghĩa. Điều này làm nên chiều sâu nhân văn mới cho tác phẩm.

Bức tranh phố huyện khép lại với cảnh đêm tối, khi bóng đêm thật sự tràn về. Đêm mùa hạ đẹp như nhung, với bóng trời ngập tràn ngôi sao lấp lánh, và những đom đóm rơi rụng như viên pha lê trên mặt đất hay treo lơ lửng trong không khí. Những cơn gió mát làm cho cảnh đêm trở nên dễ chịu. Nhưng dưới mặt đất lại được bao phủ bởi bóng tối. ‘Tối hết cả’, con đường dẫn ra bờ sông, đường qua chợ về nhà, những ngõ vào làng trở nên u ám hơn. Bóng tối này lan tỏa khắp phố huyện, tạo nên một không gian đen tối và đáng sợ. Bóng tối có thể là biểu tượng cho xã hội thực dân thời Pháp, đầy tù túng, ngột ngạt, tăm tối và tàn tạ như đêm. Và sự sống sót của con người giữa bóng tối chỉ giống như những khe sáng nhỏ, hột sáng, vùng sáng leo lết, chập chờn. Đối với Liên, cảm xúc trong tâm hồn chị là nỗi buồn man mác trước cuộc sống tăm tối, không có hi vọng cho tương lai. Liên nhìn lên bầu trời với hàng ngàn ngôi sao lấp lánh nhưng đó là một thế giới ‘bí ẩn và xa lạ’, mong muốn và khát khao của Liên không bao giờ thành hiện thực. Đó là lý do Liên cúi đầu xuống mặt đất nơi ‘quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí’. Với Liên, thế giới ấy mới gần gũi, là cuộc sống tăm tối, nhạt nhòa của chị.

Thạch Lam khéo léo tạo nên bức tranh về phố huyện bằng sự kết hợp tinh tế giữa hiện thực và lãng mạn, thể hiện qua trải nghiệm và chiêm nghiệm cá nhân. Đó là một cái nhìn tổng thể về xã hội Việt Nam thời thuộc địa, nơi nỗi đau, tù túng, và tăm tối lan tỏa, tạo nên cảnh ngộ đau lòng, vô ý nghĩa. Bức tranh được mô tả theo dòng chảy của thời gian từ chiều tàn đến đêm khuya qua đôi mắt của nhân vật Liên – một cô gái trẻ với tâm hồn nhạy cảm. Thạch Lam vẽ nên bức tranh quê hương với vẻ đẹp sâu sắc, thể hiện tình yêu và lòng thương cho những số phận đau thương. Hơn nữa, ông tinh tế phê phán xã hội thực dân, nơi quyền sống của người dân không được đảm bảo.

Cái phố huyện yên bình và nghèo nàn, dường như không mang lại hy vọng cho bất cứ điều gì. Tuy nhiên, có một điều mà tất cả mọi người ở đây đều chờ đợi, đó là chuyến tàu đêm.

Chuyến tàu đêm là sự kiện cuối cùng trong mỗi ngày, mọi người đều hồi hộp chờ đợi. Dù Liên đã cảm thấy ‘buồn ngủ ríu cả mắt’, có lẽ để chuẩn bị cho việc ‘bán hàng, hy vọng sẽ có vài người mua’ theo lời mẹ. Nhưng thật ra, Liên thức dậy không chỉ để kinh doanh mà còn vì lý do khác, ‘vì muốn ngắm chuyến tàu cuối cùng của đêm khuya’. Mọi người đã quá lâu sống trong tình trạng mệt mỏi và tù túng của thế giới tăm tối, và chuyến tàu đêm là một cơ hội để họ mơ về một cuộc sống mới, sáng sủa hơn.

Thạch Lam tài năng khi mô tả hình ảnh của chuyến tàu từ khi nó xa xôi đến sự hào hứng của những người đang chờ đợi, cho đến khi ánh sáng rực rỡ bắt đầu hiện hữu.

Trước khi tàu đến, là khoảnh khắc khắc khoải chờ đợi. Bác Siêu, sau một ngày dài chờ đợi, thấy ánh sáng đèn ghi, bác reo lên vui mừng: “Đèn ghi đã sáng”. Niềm vui của bác đánh dấu sự hạnh phúc khi sự chờ đợi cả ngày sắp trở thành hiện thực. Với Liên, chị đặt mọi giác quan vào việc chờ đón tín hiệu. Chị nhận ra “ngọn lửa xanh biếc, gần như ma trơi”, đèn lập loè mà nếu không để ý kỹ sẽ không thể nhận biết. Tiếp theo là tiếng còi vang vọng “trong đêm dài với gió xa xôi”. An, mặc dù buồn ngủ, nhưng vẫn nhắc chị dậy khi tàu đến.

Mặc dù chỉ là vài chi tiết nhỏ, nhưng chúng ta cảm nhận được niềm khao khát lớn lao của những người nơi phố huyện này trước chuyến tàu đêm. Bởi chuyến tàu mang theo hy vọng, ánh sáng cho những cuộc sống tăm tối nơi đây.

Đối với Liên, chuyến tàu đêm làm tâm hồn chị thanh thản. Ban ngày, những nỗi buồn không rõ nguyên nhân làm cho chị cảm thấy “tâm hồn Liên yên tĩnh, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Chính chị cũng không hiểu tại sao mình mong đợi chuyến tàu đêm này.

Khi tàu đến, ngay từ xa, tất cả mọi người nơi phố huyện đã nhận biết. Tiếng còi vang lên, khác xa tiếng trống chiều của chòi canh, mỗi buổi chiều. Tiếng rít của bánh xe vào ghi, tiếng ồn ào của hành khách tạo nên âm thanh náo nhiệt, khác biệt hoàn toàn với âm thanh trầm lắng, đơn điệu của phố huyện nghèo. Điều đó kèm theo là ánh sáng xanh biếc, “như ma trơi”, và “làn khói bừng sáng trắng xa xôi”, tạo nên không khí đầy sôi động, mà người dân phố huyện đã chờ đợi cả ngày dài.

Liên đánh thức An bằng sự nhẹ nhàng, “nhỏm dậy” của An phản ánh sự mong đợi, hồi hộp, khao khát như đang chờ đón một giá trị quý giá.

Tàu tiến gần, “tiếng còi vang lên, và tàu rầm rộ tiến tới”, âm thanh này khiến phố huyện rộn ràng giữa đêm tối. Thứ ánh sáng chói lòa “các toa tàu tỏa sáng trưng, chiếu sáng xuống đường”, “đồng và kền lấp lánh, cửa kính sáng” xua tan bóng tối, mang lại niềm tin, hy vọng về một tương lai tươi sáng, nơi họ có thể sống giữa ánh sáng long lanh, lấp lánh ấy.

Dù chỉ là một thoáng qua rồi biến mất, “những đốm than đỏ tung bay trên đường sắt”, nhưng ý nghĩa nó để lại không nhỏ, không chỉ với Liên mà còn với mỗi người dân ở phố huyện này. Chuyến tàu không chỉ là đam mê của Liên mà là điều kích thích những ký ức tươi sáng về Hà Nội xa xăm, rực rỡ và huyên náo khi gia đình Liên chưa gặp khó khăn như hiện tại. Liên mơ về một thế giới khác, “khác hẳn ánh sáng đèn của chị Tí và lửa của bác Siêu”.

Chuyến tàu mang đến âm thanh và ánh sáng khác biệt, náo nhiệt, vui tươi hơn nhiều so với phố huyện hàng ngày – ánh sáng của sự xa hoa, niềm vui và hy vọng. Mặc dù chỉ là một cái vụt qua, nhưng đó là những gì mọi người ở đây mong đợi suốt một ngày dài, vì nó là niềm hi vọng, mong đợi về một tương lai tươi sáng hơn.

Hai đứa trẻ của Thạch Lam không chỉ khám phá đau khổ, tù túng của những lao động nghèo ở phố huyện, mà còn đào sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để làm nổi bật niềm đau xót của tác giả đối với số phận của những con người nghèo khổ, cuộc sống quẫn quanh.

Thông qua câu chuyện, tư tưởng nhân đạo mới đã bắt đầu nảy mầm trong văn học Việt Nam thời kỳ này. Đó là lòng thương cảm của những tác giả thuộc tầng lớp tiểu tư sản đương đại đối với số phận khốn khổ, đau khổ, tù túng của những người ở phố huyện nghèo dưới thời Thực dân Pháp, trước Cách mạng tháng Tám. Đồng thời, tác phẩm làm nổi bật hy vọng, ước mơ mong manh của họ về một tương lai tươi sáng, phong phú hơn – điều mà Thạch Lam thương xót và trân trọng. Cuối cùng, câu chuyện là biểu hiện của tài năng của một nhà văn trẻ, với bút phê mô tả sâu sắc nội tâm nhân vật và những trải nghiệm đậm đặc về cuộc sống của những người cùng chung số phận.

4. Bài văn Phân tích Hai đứa trẻ, mẫu số 4:

a. Thời gian và không gian cảnh chiều ở phố huyện

– Không gian trong tác phẩm mô tả bức tranh của một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám với những chi tiết thơ mộng, tràn ngập cảm xúc {một chiều êm dịu như gió ru). Nơi đây là không gian sống động. Cùng với đó, truyện còn kể về không gian hồi tưởng của chị em Liên – là nơi sống của gia đình Liên và An khi còn ở Hà Nội; và không gian ảo tưởng – nơi Hà Nội với vẻ đẹp xa hoa, sáng rực, huyên náo và hạnh phúc.

– Thời gian là một chiều tà, với tiếng trống thu mộng mị, tiếng ếch nhái kêu lạnh lùng trên đồng; tại chợ, mọi người chuẩn bị trở về sau một buổi buôn bán hối hả. Tiếp theo là bóng tối của đêm đen phủ kín ‘một đêm tối u ám’.

– Cảnh vật đồng quê, hoang sơ, với những đồ vụa vặt, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn… đám trẻ tranh nhau nhặt, nhổ nát một cách vui vẻ, hồn nhiên.

b. Cuộc sống và hình ảnh của những người dân sống ở phố huyện

– Cuộc sống của những cư dân tại phố huyện nghèo tràn ngập sự khó khăn, đơn sơ, hối hả, và ám ảnh bởi bóng tối nghèo đói mọi lúc. Các hình ảnh như gánh nước ế ẩm của mẹ con chị Tí, gánh phở của bác Siêu, hay cảnh gói gọn cuộc sống trên chiếc gối giữa bầu trời đêm của gia đình bác xẩm và bà cụ Thi thể hiện cuộc sống khó khăn của họ trước cách mạng.

– Họ trải qua những cuộc sống nghèo đói, nhưng vẫn giữ được lòng chân thành, tình cảm, lòng nhân ái, và luôn kỳ vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Điều này được thể hiện qua các chi tiết sau:

+ Mẹ con chị Tí ban ngày kiếm sống bằng cách mò cua và bắt tép, vào buổi tối bày hàng nước dù thường xuyên gặp khó khăn; chỉ có vài người phu gạo hay phu xe, đôi khi mới xuất hiện một vài chú lính lệ đi qua và uống chén nước.

+ Gánh phở của bác Siêu mỗi tối được bày bán, nhưng nó lại là một món quà quý giá đối với những người dân nghèo tại phố huyện.

+ Gia đình bác xẩm sống trong cảnh đói nghèo, đầy bất công, hàng đêm vẫn đều đặn chờ đợi khách ở phố chợ nghe đàn nhưng ít ai để ý; giữa đêm tăm tối, âm nhạc của bác trở thành một nét buồn buồn thêm vào khung cảnh u tối của cảnh đêm và những con người.

+ Bà cụ Thi, một hình ảnh thể hiện sự pha trộn giữa tâm trạng hơi điên và đam mê múa rượu trong cửa hàng của hai chị em Liên, là dấu hiệu của cuộc sống bế tắc và nghẹt thở đỉnh điểm.

c. Tâm hồn của hai nhân vật chính trong tác phẩm là Liên và An

– Hai chị em Liên và An, những đứa trẻ trong sáng, tinh nghịch, và chân thật. Dù còn nhỏ tuổi, nhưng họ đã có những trải nghiệm sâu sắc với cuộc sống.

– Sống trong cảnh buồn bã, nghèo đói, mặt khác, chị em Liên cảm nhận sự gắn bó mạnh mẽ với thiên nhiên quê hương: ‘Mùi âm ẩm của quê hương bốc lên, hơi nóng ban ngày kết hợp với mùi cát bụi quen thuộc, chị em Liên tưởng như mùi riêng của đất, của quê hương.’ Nhưng cuộc sống ở đây vẫn buồn tẻ, nhàm chán, và họ mong muốn tìm kiếm một nơi mới, tươi sáng hơn.

d. Hình ảnh đoàn tàu và ý nghĩa của nó

– Đoàn tàu trong truyện là biểu tượng của niềm tin, hy vọng mới cho cuộc sống của những người dân nơi phố chợ. Đoàn tàu được miêu tả với hình ảnh sống động, làm cho phố huyện trở nên sáng tạo và hứng khởi hơn. Đối với chị em Liên, mỗi đêm, dù buồn ngủ, họ vẫn đợi chờ chuyến tàu. Chuyến tàu mang lại hy vọng về một Hà Nội sáng rực và hạnh phúc, làm hồi tưởng về những kí ức hạnh phúc trước đây – như một niềm an ủi trong cuộc sống hiện tại.

– Nhưng sau khi đoàn tàu qua đi, họ phải trở lại với cuộc sống khó khăn, vô vị – nơi ‘phở của bác Siêu trở thành một món quà xa xỉ không mua được’. Tối hôm sau, họ lại chờ đợi đoàn tàu như chờ đợi ước mơ – một ước mơ chập chờn, kéo dài chưa rõ hình dạng.

Bài văn Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam xuất sắc nhất

5. Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam, mẫu số 5:

Nhờ đóng góp vào tờ báo Phong hóa, Ngày nay cùng với Nhất Linh và Hoàng Đạo, Thạch Lam đã chơi một vai trò quan trọng trong nhóm Tự lực Văn đoàn từ tháng 9 năm 1932 và những năm tiếp theo. Thạch Lam mô tả quan niệm sáng tác văn chương của mình: ‘Văn chương không chỉ là cách làm cho người đọc thoát ly hay quên đi; ngược lại, nó là khí giới thanh cao và đắc lực, có thể tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, làm cho tâm hồn chúng ta trở nên trong sạch và phong phú hơn’. Truyện ngắn của ông thường phản ánh một cách trung thành quan niệm này, tập trung vào đời sống khó khăn của người dân nghèo ở cả nông thôn và thành thị. Các tác phẩm như Nhà mẹ Lé, Đói, Tối ba mươi… đều khiến độc giả không khỏi thấu hiểu và cảm thông.

Đêm tại một phố chợ nhỏ trong huyện. An và Liên, hai chị em thay mẹ bán hàng xén. Chợ đã tan, nhưng họ vẫn chưa dừng lại. Ngồi trước cửa hàng, nhìn phố chợ lúc đêm buông xuống. Chợ chỉ còn vài người chuẩn bị về, những đứa trẻ nghèo nặng bát rác, chị Tí bày hàng nước, bác Siêu phở, cụ bà mua rượu, vợ chồng bác hát rong… An mệt mỏi ngủ say, Liên đưa An vào bên cạnh và nằm xuống, chìm đắm trong sự tịch mịch và bóng tối của phố huyện.

Cốt truyện chẳng hấp dẫn gì cả với những nhân vật chính là hai chị em Liên và An. Tất cả sinh hoạt của phố chợ, từ buổi chiều tới đêm, đều bị hai chị em ghi lại bằng đôi mắt tinh tường của mình. Thạch Lam mô tả chi tiết cảnh phố chợ theo thời gian, công việc hàng ngày của những người sống nhờ chợ.

Bức tranh không gian chiều mở đầu bằng âm thanh của ‘tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi chiều về’. Đó là một tứ thơ đẹp, không có trong bức tranh nào khác. Tiếng trống thu không như một lời mời, kéo mọi vật tự nhiên hội tụ trước mắt hai chị em. Bức tranh chiều bao trùm bởi ‘Phương tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn’. Màu đỏ rực đánh dấu thời gian chuyển đổi. Dãy tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời xanh. Đó là gam màu đối nghị. Thạch Lam tinh tế khi miêu tả ‘những nguồn sáng ấy chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng, một bên tối’.

Và đèn đã lên cho thấy sự giàu nghèo, từ đèn treo trong nhà bác phở Mĩ đến đèn dây sáng xanh trong hiệu khách. Mô tả tinh tế của Thạch Lam cho thấy sự khéo léo, tinh tế trong cách nhìn. Bức tranh đêm phố huyện được thêm mùi vị quê hương qua những chi tiết như ‘trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng cua ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc, khiến chị em Liên tưởng như mùi riêng của đất, của quê hương’.

Bức tranh phố chợ huyện về đêm còn có con người, những con người sống thầm lặng, đối mặt với áo cơm, đói nghèo. ‘Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra; chị Tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chõng trên đầy và tay mang không biết bao nhiêu đồ đạc: tất cả của chị’. Các chi tiết như vậy tạo nên bức tranh sống động, thấm sâu với tình cảm của nhà văn.

Góp thêm vào bức tranh là hàng phở của bác Siêu, ‘Bác… đặt gánh phở xuống đường. Bác cúi xuống nhóm lại lửa, thổi vào cái ống nứa con. Bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng…’.

Xuất hiện thêm ‘gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe’…

Nhân vật phụ gia tăng với một số người làm công ở các hiệu khách đi đón bà chủ từ tỉnh về. Những con người này là dấu hiệu cho chuyến tàu sắp đến.

Hướng dẫn viết bài Phân tích truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam để đạt điểm cao

Thạch Lam mô tả về cuộc sống của những nhân vật, bắt gặp những cuộc đối thoại tự nhiên giữa họ. Nhưng từ đó, độc giả có thể cảm nhận được số phận của con người trong bức tranh chung của đau khổ và sự thực của xã hội dưới thời kỳ phong kiến thực dân. Gia đình của bà cụ Thi ẩn sau bóng tối ở đâu? Vì sao bà lại mất trí và nghiện rượu? Mặc dù câu chuyện không mô tả chi tiết, nhưng độc giả có thể cảm nhận được số phận bất hạnh của một người vợ, một người mẹ qua cuộc sống lang thang của bà. Có vẻ như bà cụ điên điên trải qua một sự sốc lớn, và bà ấy sử dụng rượu để quên đi cuộc sống đau khổ của mình. Và gia đình của bác xẩm, với chỉ một chiếc chiếu rách và chiếc thau sắt cũ, cùng với đàn bầu và giọng hát tận sâu trong họng vì không có khán giả. Gia đình bác sống nhờ vào những công cụ đó và lòng hảo tâm của những người qua đường. Cuộc sống của gia đình ‘thằng con bò ra đất, ngoài chiếc chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn chôn sâu trong cát bên đường’ sẽ ra sao? Và cuộc sống của gia đình chị Tí, những đứa trẻ nghèo, sẽ điều chỉnh như thế nào sau này? Nhà văn mô tả tổng quan về số phận của những con người sống giữa phố chợ vào buổi tối qua một câu ngắn: ‘Những người đó trong bóng tối đang mong đợi một tia sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ’. Một câu văn nhẹ nhàng, như những đoạn văn mô tả về những nhân vật khác, không có sự đánh giá hay kết án, nhưng vẫn mang đến sức mạnh truyền đạt và, hơn nữa, là hy vọng cho sự thay đổi đối với cuộc sống của những người nghèo, để xã hội không còn những đứa trẻ lùng sục rác, những bà cụ điên điên đi ăn xin, và không còn những gia đình như gia đình bác xẩm.

Những nhân vật trong câu chuyện tạo nên bức tranh của cuộc sống thị trấn trong đêm, yên bình và rung cảm trước sự chứng kiến của hai đứa trẻ, Liên và An, đây là những nhân vật chính của câu chuyện.

Một thời kỳ nào đó, hai chị em Liên và An đã sống với bố mẹ ở Hà Nội, thưởng thức những khoảnh khắc tuyệt vời tại bờ Hồ và uống những cốc nước màu xanh đỏ, biểu trưng cho cuộc sống ở phố đèn đẹp. Nhưng tại sao họ lại trở về phố huyện này? Bởi vì ‘thầy Liên mất việc’, cả gia đình phải quay về đây, thuê một gian hàng nhỏ và mẹ giao nhiệm vụ trông nom cho Liên. Công việc chính của chị em là bán hàng và trông nom, ngủ ngay tại chỗ.

Dĩ nhiên, An là một đứa trẻ nhỏ, tâm hồn còn ngây thơ. Khi thấy nhóm trẻ tụ tập ở thềm hè, cười nói vui vẻ, An cũng muốn tham gia để chơi đùa. Việc có thêm bạn đồng hành trong cuộc sống chợ đêm khiến em vui sướng hơn. Điều này thể hiện tâm lý hiếu động và ngây thơ, tuổi thơ với sự hiện diện rõ ràng của bản năng trong việc ăn và ngủ. Trong khi mô tả tâm lý nhân vật, Thạch Lam không quên nhấn mạnh điều này, và cũng giữ vững bản chất giáo dục gia đình trong cách An gọi Liên là ‘chị’ và xưng ’em’ trong mỗi cuộc trò chuyện. Khi chờ đợi tàu, An buồn ngủ lắm. Em chọn nằm xuống chõng, đầu gối đặt lên đùi chị để ngủ, nhưng vẫn nhớ nhắc: ‘Khi tàu đến, chị đánh thức em nhé’. Và trong ngày đó, khi tàu chạy qua và biến mất sau rặng tre, An nói với chị: ‘Tàu hôm nay không đông đúc, phải không chị?’, sau đó thúc giục chị đi ngủ. Ngồi đợi tàu, trước khi ngủ, em nhắc nhở chị phải gọi em dậy để xem tàu chạy qua. Đó là sở thích và tính tò mò của đứa trẻ, chưa hẳn đã có ý thức sâu xa về những kí ức và điều kiện sống của mình. Có lẽ vài chục năm sau, những đêm chờ đợi tàu như thế sẽ trở thành những kí ức, đồng thời là nguồn gợi ý về xã hội vào thời điểm đó. Tuy nhiên, lúc đó, với An, việc đợi tàu chỉ là một thói quen tò mò, và là niềm vui tại phố huyện nhỏ.

Khác biệt so với em, Liên đã có kiến thức sâu rộng hơn, mẹ đã giao cho cô trách nhiệm quản lý cửa hàng, mặc dù không quản lý toàn diện nhưng đã chịu trách nhiệm về việc quản lý hàng hóa và tiền bạc, đặc biệt là phải giao tiếp với nhiều người.

Trong công việc, chúng ta thấy Liên thể hiện tính cẩn thận và ngăn nắp. Thạch Lam mô tả Liên như là người rất thông thạo trong việc mua bán. Một ngày kết thúc, ‘Liên đếm lại số lượng thuốc lá, xếp những chiếc xà phòng vào hòm, và đồng thời lẩm nhẩm tính tiền hàng’. Kiểm tra hàng tồn trước khi kiểm tra doanh số bán hàng trong ngày là dấu hiệu của một người buôn bán kỳ cựu. Khi cảm thấy nhiệt độ trong quán quá cao và không thể ngồi đếm tiền, ‘Liên nhanh chóng khóa lại tiền với một chiếc khóa mà chị đeo trên dây lưng bạc’. Tất cả đều thể hiện tính cẩn trọng của Liên, thậm chí khi phục vụ rượu cho bà cụ Thi, người có vẻ hơi điên điên.

Nhưng đặc biệt quý báu hơn tất cả là lòng nhân ái và tình thương đối với những người nghèo. Nhìn thấy những đứa trẻ nghèo lượm rác, ‘Liên… bội phục lòng thương nhưng chính cô ấy cũng không có tiền để giúp đỡ chúng’. Đúng, mặc dù bán hàng nhưng tiền lại do mẹ quản lý, Liên không có quyền quyết định; thêm vào đó là cha của Liên đang thất nghiệp. Ngay cả khi mùi phở thơm của nhà bác Siêu lan tỏa, Liên cũng rất muốn thưởng thức nhưng không dám vì không có tiền riêng.

Chỉ cần nhìn cách nói, cách hành xử qua từng đoạn văn của Thạch Lam, bạn có thể cảm nhận sự quan tâm và yêu thương mà Liên dành cho em. Mỗi khi, cô ấy luôn nhẹ nhàng, chiều chuộng em. Hình ảnh ‘An nằm xuống gối, đầu đặt lên đùi chị’, ‘Liên nhẹ nhàng quạt gió cho An, vuốt nhẹ tóc mềm…’, ‘Cô ấy cúi xuống để em thoải mái vào hàng…’ làm nổi bật những đức tính đáng trân trọng đó.

Trong không gian riêng tư, Thạch Lam chi tiết tâm trạng của Liên khi bóng tối buông xuống, và cô cố gắng thức tỉnh để chờ đón âm nhạc tàu chạy qua. Đó là tâm trạng buồn bã, tiếc nuối, và nỗ lực tìm kiếm niềm vui, hi vọng trong cuộc sống khó khăn, không có lối thoát.

Trong đoạn đầu của câu chuyện, Thạch Lam mô tả nỗi buồn của Liên trước khi hoàng hôn bằng cách giao hòa hoàn toàn với nhân vật: ‘Liên ngồi yên trước những cây thuốc lá đen; đôi mắt cô bắt đầu nấp vào bóng tối, và nỗi buồn của buổi tàn biến đến tâm hồn hồn nhiên của cô: Liên không hiểu tại sao, nhưng cô cảm nhận được nỗi buồn man mác trước cảnh hoàng hôn’. Bạn có thể cảm nhận được nỗi buồn của Liên, nỗi buồn của kí ức. Hai hình ảnh: một là quá khứ khi cô ở Hà Nội, và hai là hiện tại ở phố huyện đêm đó đã giải thích cho nỗi buồn của Liên. ‘Liên hồi tưởng về thời kỳ Hà Nội, nơi cô được thưởng thức những món quà ngon lành…, chỉ là một vùng sáng rực và lung linh. Hà Nội có quá nhiều ánh đèn! Sau khi gia đình Liên chuyển về đây…, mỗi đêm Liên và em phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới tán cây bàng…’ nhìn những điểm sáng nhỏ của chị Tí, bác Siêu, và gia đình bác hát rong để kiếm sống qua ngày. Đêm qua đêm, sinh hoạt ở phố huyện nhỏ chỉ đơn giản, lặp lại, và nghèo nàn. Liên quan sát họ, ‘chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó sáng sủa để sống và hy vọng. Quán chè xanh của chị Tí, quán phở của bác Siêu có đèn xa xa. Có những lúc hai chị em Liên nhìn lên bầu trời sao… nhưng ‘Vũ trụ bí ẩn và rộng lớn với tâm hồn hai đứa trẻ như là một điều kỳ diệu và xa lạ, làm cho tâm trí mệt mỏi, vì vậy chỉ sau một lát, hai chị em lại quay đầu nhìn xuống mặt đất…’ và khi nhìn xuống, họ chỉ thấy ánh sáng lóe lên từ những đèn của bác Siêu, chị Tí giữa bóng tối. Đối với Liên, đêm đó qua đêm khác chỉ có và chỉ còn con tàu đi qua trong phút chốc là hình ảnh đáng chú ý: ‘Liên và em thức tỉnh vì mục đích khác, vì mong muốn nhìn thấy con tàu, đó là sự kiện cuối cùng của đêm’. Cuối cùng, con tàu đến. Liên đánh thức em. An nhỏ dậy để nhìn rõ con tàu. Con tàu đầy ắp đèn sáng lấp lánh, người trên toa hò hét vui vẻ. Cả hai chị em đứng dậy để ngắm, sau đó ‘nhìn theo điểm sáng nhỏ của đèn xanh treo trên cùng toa, xa xa biến mất sau đám tre’. Và mọi thứ kết thúc! Con tàu mang theo ánh sáng thành phố một lát rồi biến mất, để lại phố huyện trong bóng tối của đêm, để lại ‘vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên chiếc chiếu đã bền chừng nào’, để lại cô ‘Liên lặng nhìn vào giấc mơ về Hà Nội xa xôi, Hà Nội sáng rực hạnh phúc và náo nhiệt. Con tàu như đưa đi một phần của một thế giới khác. Một thế giới khác hoàn toàn, đối với Liên, khác biệt với những chùm đèn nhỏ của chị Tí và ngọn lửa của bác Siêu…’. Đó là cách Liên tận hưởng cái khác biệt kia, giải thoát một chút khỏi thực tại đau buồn của phố huyện mà gia đình cô đang sống, giống như bất kỳ phố huyện nào khác trên quê hương này vào những năm trước năm 1945; hoặc nói cách khác, đó là hình ảnh mà ‘chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó sáng sủa’ như tâm trạng của Liên khi nằm xuống bên em để tìm vào giấc ngủ: ‘Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ’. Đó là thế giới khác kia, nơi có ánh sáng hạnh phúc họ không thể đạt được, chỉ khi cô thức tỉnh để đón đợi con tàu mỗi đêm để họ càng cảm nhận rõ hơn phận đời nghèo nàn của mình.

Dù được viết theo lối mạn mẽ, tình cảm của Thạch Lam không chỉ dành cho tình yêu đôi lứa mà còn lan tỏa vào hiện thực cuộc sống con người, như trong truyện ngắn Hai đứa trẻ. Mặc dù câu chuyện có cốt truyện đơn giản, không có những nhân vật gây kịch tính mạnh mẽ như các truyện của Nam Cao, Nguyễn Tuân… nhằm thu hút độc giả, nhưng với phong cách viết nhẹ nhàng, tinh tế trong việc mô tả tâm lý của từng nhân vật và lọc bỏ những chi tiết không cần thiết… Thạch Lam thể hiện tâm hồn của mình trước cảnh thiên nhiên và trước những con người đầy số phận đau khổ, cuộc sống nghèo đói. Không sử dụng ngôn từ lên án, nhưng vẫn truyền đạt thông điệp về sự bất công của chế độ cũ, về sự chênh lệch đời sống giữa thành thị và nông thôn. Nhà văn thật sự đã đặt tâm huyết vào những đoạn văn tình cảm của những người nghèo khó, với hy vọng đẩy lùi ‘thế giới giả dối và tàn ác’ vào quá khứ, để ngọn lửa hi vọng sáng lên trong cuộc sống của ‘những người trong bóng tối mong đợi một tia sáng cho cuộc sống nghèo đói hàng ngày của họ’, như anh ta đã viết trong câu chuyện ngắn nổi tiếng này.

“”””— HẾT “”””—

Trên đây là chi tiết dàn ý, bài văn mẫu phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam độc đáo và sắc sảo để học sinh tham khảo, học tập, ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trong giờ học văn. Ngoài ra, để đạt kết quả tốt trong môn Ngữ văn, học sinh có thể xem thêm những bài văn mẫu khác trong danh sách những bài văn hay cho lớp 11 như Phân tích Hạnh phúc của một tang gia, Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù, Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Tâm sự của nhân vật trữ tình qua bài thơ Tự tình,… 

0 ( 0 bình chọn )

Nguyễn Tất Thành

https://truongnguyentatthanh.edu.vn
Nguyễn Tất Thành - Nơi chia sẻ kiến thức chuyên sâu trong các lĩnh vực từ giáo dục, văn hóa đến kỹ năng phát triển bản thân. Với các bài viết chất lượng, Nguyễn Tất Thành cung cấp nền tảng vững chắc cho người đọc muốn nâng cao hiểu biết và kỹ năng. Khám phá thông tin hữu ích và học hỏi từ những chuyên gia đầu ngành để hoàn thiện bản thân mỗi ngày.

Ý kiến bạn đọc (0)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

Bài viết mới

Xem thêm