- Kế hoạch phân tích chi tiết khổ thứ 3 Tây Tiến
- Bản đồ tư duy phân tích Tây Tiến khổ 3
- Phân tích Tây Tiến khổ 2 – Mẫu 1
- Phân tích đoạn 3 Tây Tiến học sinh giỏi – Mẫu 2
- Phân tích bài thơ Tây Tiến đoạn 3 – Mẫu 3
- Phân tích khổ 3 Tây Tiến – Mẫu 4
- Phân tích đoạn 3 Tây Tiến – Mẫu 5
- Phân tích khổ 3 Tây Tiến – Mẫu 6
- Phân tích khổ 3 Tây Tiến – Mẫu 7
Phân tích phần thứ 3 của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng gồm tổng cộng 21 mẫu phân tích rất hay cùng 4 gợi ý viết chi tiết. Bằng những mẫu phân tích Tây Tiến khổ thứ 3 sắc nét này, các bạn có thể nhanh chóng hiểu được nội dung và tiết kiệm thời gian tìm kiếm.
- Tuổi Ất Sửu 1985 hợp cây gì? Cây phong thủy cho 1985
- TOP 18 Bộ phim đam mỹ Hàn Quốc hay, mời các hủ không thể bỏ lỡ
- Liên kết Spin Coin Master miễn phí ngày 21/6/2020
- Ý nghĩa của FWB trên mạng xã hội, tin nhắn và ứng dụng hẹn hò là gì?
- Explore 5 budget-friendly night markets in Hanoi that attract visitors.
Phân tích khổ thứ 3 của bài thơ Tây Tiến được biên soạn kỹ lưỡng và chất lượng, giúp bạn hiểu sâu hơn về hình ảnh hùng vĩ của lính Tây Tiến. Dưới đây là 21 mẫu phân tích Tây Tiến đoạn 3 để bạn tham khảo. Ngoài ra, để học môn Văn tốt hơn, bạn có thể xem thêm phần mở bài Tây Tiến, kết bài Tây Tiến, và phân tích đoạn 1 Tây Tiến.
Kế hoạch phân tích chi tiết khổ thứ 3 Tây Tiến
I. Bắt đầu
– Giới thiệu về nhà thơ Quang Dũng và cách ông sáng tác thơ.
– Giới thiệu về bài thơ Tây Tiến, một trong những tác phẩm tiêu biểu của Quang Dũng.
– Tóm tắt nội dung chính của khổ thơ thứ 3.
II. Nội dung
1. Tình hình ra đời của bài thơ
– Tây Tiến, thành lập từ năm 1947, là một đơn vị quân đội có trách nhiệm bảo vệ biên giới Việt – Lào và đấu tranh chống lại quân Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc của Việt Nam. Vùng hoạt động của Tây Tiến chủ yếu là những khu rừng núi nguy hiểm, là nơi sinh sống của các dân tộc Mường, Thái với văn hóa độc đáo. Lính Tây Tiến chủ yếu là thanh niên Hà Nội, bao gồm nhiều học sinh, sinh viên, họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh thiếu thốn nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
– Quang Dũng, một chiến binh của đội quân Tây Tiến, sau khi rời khỏi đơn vị vào cuối năm 1948, một năm sau đó, ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (nay thuộc Hà Nội). Bài thơ này được xuất bản trong tập “Mây đầu ô” (1986).
2. Phân tích khổ thơ thứ 3
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
– Đoạn thơ này tập trung mô tả hình ảnh những người lính Tây Tiến bằng ngôn từ lãng mạn nhưng vẫn giữ được sự thực với tình cảm bi tráng.
– Lính Tây Tiến không sợ khó khăn, cảnh cơm mặn mà: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.
– Mạnh mẽ nhưng cũng đầy mơ mộng: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: mơ về hình bóng kiều diễm của thiếu nữ Hà thành thanh lịch.
– Sự hy sinh của lính Tây Tiến:
- Những lính trẻ tinh nghịch gửi mình vào biên cương xa xôi, sẵn lòng đóng góp “đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hối tiếc.
- Hình ảnh “áo bào thay chiếu” tôn vinh sự hi sinh của lính Tây Tiến.
- Họ nhìn cái chết nhẹ nhàng như lông hồng, thanh thản như quay về với đất mẹ: “anh về đất”.
- “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”: Linh hồn chiến sĩ hòa với dòng sông. Con sông Mã đã đánh thức giai điệu buồn, hùng vĩ để tiễn lính vào cõi bất tử: Âm hưởng rộng lớn đậm chất hy sinh của lính Tây Tiến.
- Những từ ngữ như “biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành…” tạo không khí nghiêm trọng, trang nghiêm khi nói về sự hi sinh của lính Tây Tiến.
=> Hình ảnh lính Tây Tiến phản ánh sự hiền hậu mà dũng mãnh của người tráng sĩ anh hùng xưa.
III. Kết bài
Tổng kết ý kiến về khổ thơ thứ 3, cũng như giá trị của bài thơ Tây Tiến.
……………..
Bản đồ tư duy phân tích Tây Tiến khổ 3
Phân tích Tây Tiến khổ 2 – Mẫu 1
‘Cuộc sống là miếng đất màu mỡ để thơ mượt mà và nảy mầm.’ (Puskin) Thơ của Quang Dũng trung thực như chính những trải nghiệm của nhà thơ trên chiến trường. Ngòi bút của Quang Dũng không lẩn tránh sự thật bi thương, những mất mát hy sinh trong cuộc chiến. Từ những cuộc hành quân vất vả giữa núi cao vực sâu đến những buổi tối ấm áp trong tình quân dân, tất cả đều được tác giả mô tả một cách chân thực.
Nếu ở những đoạn thơ đầu, người lính Tây Tiến được miêu tả gián tiếp trong khung cảnh núi rừng miền Tây với những bước chân hành quân ra trận, thì đến khổ thơ thứ ba, hình ảnh các anh được khắc họa trực tiếp với vẻ đẹp lãng mạn nhưng đậm chất bi tráng. Ở hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã vẽ ra chân dung người lính Tây Tiến với bề ngoài kì dị khác thường:
‘Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá giữ oai hùng’
Người lính Tây Tiến hiện lên với hình ảnh ‘không mọc tóc’. ‘Không mọc tóc’ có thể là do những cơn sốt rét rừng triền miên, cũng có thể do các anh tự cạo trọc đầu. Câu thơ còn có thể hiểu như các anh không quan tâm đến việc mọc tóc, không cần mọc tóc, thể hiện một thái độ coi thường gian khổ hiểm nguy. Từ những chàng trai Hà Thành vốn hào hoa lịch lãm, người lính Tây Tiến trở thành những anh ‘vệ trọc’ với mái đầu không tóc.
Bên cạnh không mọc tóc còn là ‘quân xanh’. Đó là màu xanh của bộ quân phục, màu xanh của lá ngụy trang hay là màu xanh của nước da vàng vọt xanh xao do khó khăn bệnh tật. Màu xanh của nước da như hòa vào màu xanh bạt ngàn của núi rừng, lột tả được hiện thực đầy khắc nghiệt của cuộc chiến.
Vẻ đẹp lãng mạn bi tráng của những người lính Tây Tiến không chỉ thể hiện qua diện mạo bề ngoài mà còn qua đời sống tinh thần với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa.
‘Ánh mắt hướng về phía trước, tràn đầy mơ mộng vượt biên giớiĐêm mơ về Hà Nội kiều diễm’
‘Ánh mắt hướng về phía trước’ là biểu hiện của ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là ánh mắt của lòng căm thù, tinh thần cảnh giác và sự kiên cường vững chãi. Các anh mơ về phía trước, mơ về việc bảo vệ non sông đất nước, giấc mơ của sự chiến thắng.
Tính cách của người lính mạnh mẽ can đảm nhưng đồng thời rất lãng mạn, trái tim luôn đong đầy yêu đời. Với xuất thân từ những học sinh, sinh viên Hà Nội, dù trải qua gian khổ của chiến tranh nhưng tâm hồn của các anh vẫn rất mơ mộng, lãng mạn. Sau một ngày đối mặt với bom đạn chết chóc, đêm về các anh lại mơ về một Hà Nội thơm phức. Nếu người lính trong ‘Đồng chí’ của Chính Hữu nhớ về quê hương ‘nước mặn đồng chua’, về ‘giếng nước gốc đa’, mái tranh nghèo và người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya, một giấc mơ mộc mạc chân tình như ca dao tục ngữ, thì người lính Tây Tiến lại nhớ về những dáng kiều thơm, bóng dáng thướt tha, yểu điệu của những thiếu nữ nơi phố phường Hà Thành. Một giấc mơ trẻ trung, sôi nổi của tuổi trẻ, gợi lên vẻ hồn nhiên, đa tình và rất đáng yêu của người lính. Tình yêu lứa đôi trở thành sự bổ sung, tạo điều kiện cho tình yêu quê hương đất nước. Chính giấc mơ của tuổi trẻ đã làm cân bằng cuộc sống, tạo ra động lực tinh thần và tăng sức mạnh để người lính vững bước trên những chặng đường gian khổ trước mắt.
‘Những đêm dài hành quân, nấu nướngBỗng bồn chồn nhớ về ánh mắt người yêu.’
(Trích Nguyễn Đình Thi)
Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
‘Tổ quốc ta yêu như máu thịtNhư mẹ như cha như vợ chồngTổ quốc ta cần ta hy sinhCho mỗi nhà, ngọn núi dòng sông.’
Quang Dũng đã tạo ra hình ảnh tập thể của những người lính Tây Tiến, với tất cả gian khổ và hi sinh, nhưng không làm cho người đọc mất đi tinh thần lãng mạn. Cảm hứng của nhà thơ mỗi khi đối mặt với nỗi đau lại được nâng lên bởi lý tưởng lãng mạn. Vì vậy, hình ảnh người lính Tây Tiến không chỉ mang đậm tinh thần bi tráng mà còn đượm chất lãng mạn:
‘Đắp mồ ở biên cương xa xứBước ra chiến trường không tiếc tính mạngÁo bào thay chiếc chăn trở về quê nhàSông Mã vang lên khúc hành quân độc đáo.’
‘Trong văn thơ dân tộc, cuộc sống được so sánh với mảnh đất màu mỡ, nơi mà thơ có thể bắt rễ và phát triển.’ (Tố Hữu) Mỗi tác phẩm văn học phải phản ánh hiện thực cuộc sống, nêu bật đặc điểm của thời đại. Trong thơ của Quang Dũng, ông đã thể hiện được cái nhìn đó về cuộc sống, dám đối mặt với sự thật với những mất mát, đau thương, không ngần ngại nhắc đến cái chết và sự ra đi của người lính Tây Tiến.
Chiến tranh khốc liệt, đã đòi đi bao nhiêu sinh mạng vĩnh viễn, nơi những ngọn đèo dốc núi, nơi biên giới xa xôi lạnh leo. Những ngôi mộ của các anh trở thành những nấm mồ ẩn mình giữa rừng sâu biên giới hoang vu, tăm tối. Các anh ra đi trong sự lặng lẽ, không có mảnh chiếu che. Đồng đội chôn cất các anh vào lòng đất trong sự thiếu thốn cùng cực. Hiện thực khắc nghiệt đó đã khơi gợi sự xót xa và thương cảm của người đọc.
Đau thương, mất mát, hi sinh đó vẫn là hiện thực, nhưng qua lời diễn đạt của Quang Dũng, sự ra đi của người lính Tây Tiến vẫn được tôn vinh, dũng mãnh. Quang Dũng nói về cái chết chỉ để gây thương cảm cho người đọc, từ đó làm nổi bật lòng dũng cảm và tinh thần cao cả của các anh. Nỗi đau thương được giảm nhẹ ở câu thơ nói về bi thương bằng cách sử dụng từ ngữ Hán Việt (biên cương, viễn xứ). Những từ ngữ này không chỉ giảm bớt nỗi đau mất mát mà còn tôn vinh sự trang trọng, nghiêm túc trong sự ra đi của người lính.
Nhà thơ đã khẳng định lý tưởng và tư thế ra đi của người lính, vươn lên như lời thề của những tráng sĩ thời loạn ‘Ra chiến trường không tiếc mạng sống.’ ‘Không tiếc’ là biểu hiện của sự quyết tâm, là sự tự nguyện không bị ép buộc và một tâm trạng thanh thản. Họ sẵn lòng hy sinh vì đất nước, coi cái chết nhẹ nhàng. Lý tưởng đó thật cao cả, đẹp đẽ, sáng ngời ý chí. Đây cũng là mong ước của thanh niên Việt Nam thời chiến tranh chống Mỹ, như được thể hiện trong thơ của Thanh Thảo:
‘Chúng tôi ra đi không hối tiếc cuộc đờiNhưng tuổi thanh xuân, ai không hối tiếcNhưng ai cũng hối tiếc tuổi thanh xuân thì còn gì hơn đất nước.’
Dưới cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng, sự ra đi của người lính Tây Tiến trở nên hào hùng, trang trọng và tinh tế bởi hình ảnh ‘áo bào thay chiếu’, mang các anh trở về với đất mẹ. Chiếc áo của người lính được tôn vinh như một biểu tượng, vừa trang nghiêm lại gần gũi. Các anh ra đi không trong sự trần trụi nhưng lại có chiếc áo lẫm liệt, đưa họ trở về với núi sông.
Cách sử dụng từ ngữ của Quang Dũng rất độc đáo. Nhà thơ không dùng từ ‘chết’ mà là ‘về đất’. Cách diễn đạt này làm giảm đi nỗi đau để cái chết trở nên bất tử. Đối với người lính, cái chết không phải là sự kết thúc mà là cuộc trở về với đất mẹ. Người mẹ đang mở vòng tay để đón các anh về. Linh hồn các anh đã hòa mình vào sông núi để mãi mãi cùng với đất nước. Sự ra đi trở nên thanh thản nhẹ nhàng.
‘Ôi đất nước 4000 năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta.’
(Nguyễn Khoa Điềm)
Người lính Tây Tiến ra đi đã có dòng sông Mã như một bản nhạc trầm ấm tiễn đưa linh hồn của họ. Sông Mã là biểu tượng của kỷ niệm, mang theo những nỗi nhớ của người lính, và giờ đây nó là nhân chứng cuối cùng của cuộc sống của họ. Tiếng gầm của sông Mã biểu hiện sự mất mát, tiếc nuối và uất hận. Nó giống như một con ngựa chiến trung thành gầm rú, gào thét vì sự ra đi của các anh. Dường như cả thiên nhiên đang tiễn biệt các anh trong âm nhạc hùng vĩ của sông Mã.
‘Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt. Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay.’ Quang Dũng đã qua quá trình sáng tạo nghệ thuật đầy công phu, nghiêm túc, thậm chí là khổ hạnh để tạo ra một kiệt tác văn chương đáng nhớ. Bài thơ Tây Tiến đã thành công trong việc khắc họa chân dung của những người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng, và từ đó nổi bật tài năng và phong cách nghệ thuật của Quang Dũng với sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, sự hòa quyện giữa thơ, họa, và nhạc của một hồn thơ tài hoa.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến học sinh giỏi – Mẫu 2
Có người từng nói ‘Thơ chỉ tràn ra khi trong ta cuộc sống đã tràn đầy’. Thật đúng là vậy! Chiến tranh đã đi qua, nhưng ở vùng Tây Bắc lại khơi gợi cho Quang Dũng một nỗi nhớ sâu sắc, có lẽ nơi này đã để lại nhiều kỷ niệm trong tâm trí ông. Và nhờ nỗi nhớ ấy mà ông đã sáng tác bài thơ Tây Tiến. Người lính Tây Tiến qua bút của Quang Dũng hiện lên với nhiều khó khăn, gian nan, mà ta có thể thấy qua các khổ thơ cuối:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmMắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơmRải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, vừa viết văn vừa làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Thơ ông phóng khoáng, lãng mạn, và tài hoa. Bài thơ Tây Tiến được sáng tác ở Phù Lưu Chanh năm 1948 khi ông chuyển sang hoạt động ở đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ. Mặc dù đã chuyển hoạt động ở nơi khác nhưng hình ảnh về vùng đất, con người nơi cũ vẫn luôn hiện hữu trong tâm trí ông. Tây Tiến lúc mới ra đời đã bị cấm lưu hành, nhưng qua thời gian, nét độc đáo, sáng tạo của nó đã được thể hiện rõ trong thơ, và chính vì thế mà nó được đưa vào sách giáo khoa ngày nay.
Điều kiện thời tiết ở vùng Tây Bắc cực kỳ khắc nghiệt, ảnh hưởng trực tiếp đến người lính hành quân ở đây:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm
‘Không mọc tóc’ có thể hiểu là thời tiết gây ra sốt rét làm đau đớn thân xác người lính. Tác giả nói ‘không mọc tóc’ chứ không phải ‘không mọc được tóc’ chứng tỏ rằng họ cạo trọc đầu để dễ dàng cho việc chiến đấu, chứ không phải do bệnh tật để giảm bớt sự đau thương cho người đọc. ‘Quân xanh màu lá’, nếu sự thật trần trụi là do bệnh sốt rét gây ra thì Quang Dũng cho rằng đó là màu xanh của lá cây hóa thân cho người lính để giặc khó nhận ra. Mặc dù khó khăn chồng chất, bệnh tật liên miên, nhưng qua lăng kính của tác giả, đoàn binh hiện lên với sự yêu đời, không ngừng vươn lên trên khó khăn.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều gian khó, khắc nghiệt, nhưng điều đó không làm mất đi tinh thần lãng mạn của người lính Tây Tiến. Hai câu thơ tiếp theo mô tả vẻ đẹp và sức mạnh của họ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Dù ngày đêm đấu tranh với kẻ thù, nhưng tinh thần của những người lính luôn đong đầy ước mơ. Ước mơ đó họ gửi qua biên giới, nơi vẫn còn đầy sự đối đầu với kẻ thù, đó là ước mơ hạ gục kẻ thù để tạo ra chiến tích vinh quang. ‘Mắt trừng’ tượng trưng cho sự mạnh mẽ, quyết định, sức mạnh tinh thần để bảo vệ dân tộc, trong họ vẫn luôn tồn tại một khao khát trả thù sâu sắc với kẻ thù. Đoàn binh Tây Tiến chủ yếu là sinh viên, học sinh Hà Nội – thủ đô văn minh, là trái tim của đất nước và họ lấy đó làm động lực cho cuộc chiến. ‘Dáng kiều thơm’ là biểu tượng cho vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng của phụ nữ Hà Nội, cũng là nét đẹp của phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của quê hương là nguồn động viên lớn để họ chiến đấu, đẩy lùi kẻ thù để bảo vệ những giá trị của cuộc sống. Đó là động lực quan trọng giúp tinh thần chiến đấu trở nên mạnh mẽ hơn. Hình ảnh dáng kiều thơm là một điểm sáng lung linh trong ký ức nhưng cũng là thứ giúp họ tìm thấy sự an ủi, thư thái trong tâm hồn sau mỗi cuộc hành quân gian nan.
Đi biên cương là chấp nhận đối mặt với nguy cơ hi sinh, biết rằng việc đi có thể đồng nghĩa với cái chết, nhưng các anh vẫn sẵn sàng chiến đấu với hi vọng mang chiến thắng trở về:
Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Bao nhiêu anh hùng đã ngã xuống ở biên cương. Chiến tranh luôn đi đôi với sự chết chóc, tuy vậy, tinh thần sẵn lòng chiến đấu vẫn luôn bùng cháy. Tuổi trẻ là thời kỳ đẹp nhất, là khoảnh khắc tươi đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người, nhưng các anh cũng phải tạm gác lại để đặt nhiệm vụ của Tổ quốc lên hàng đầu ‘Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh’. Những tình cảm cá nhân, những ý chí riêng biệt đều phải nhường chỗ, những chiến sĩ vẫn tiếp tục nhau, từng lớp một, đi về phía trước, để bảo vệ từng thửa ruộng, mùa màng, để bảo vệ nhịp đập con tim của cả dân tộc.
Xem thêm : Tổng hợp ảnh meme chê bai hài hước, vui nhộn
Tiếp nối tinh thần dũng cảm, hai câu thơ cuối cùng vẫn làm nổi bật sự hy sinh, thể hiện cái chết cao quý, cái chết vĩnh cửu của người lính:
Áo bào thay chiếu đưa anh về với quê hươngSông Mã vang lên giai điệu duy nhất của sự độc hành
Quang Dũng dường như đã rơi nước mắt khi viết những dòng thơ này. Đây là cái chết, nhưng tác giả đã lựa chọn từ ngữ để giảm nhẹ nỗi đau mất mát cho những người ở lại. Thời kỳ chiến tranh là thời kỳ thiếu thốn, nghèo khó của toàn dân tộc. ‘Áo bào’ thay vì ‘chiếu’ bởi vì những người hy sinh quá nhiều, họ chỉ được phủ chiếc áo bào trên vai để trở về với quê hương. Anh về với đất mẹ, ý nghĩa là anh đã hoàn thành nhiệm vụ quang vinh của mình và giờ đây anh đã trở thành phần của quê hương. Câu thơ cuối miêu tả tiếng gầm của sông Mã như một bản giao hưởng độc đáo, vĩnh biệt những người con yêu thương của dòng họ.
Bằng cách sử dụng các kỹ thuật nghệ thuật như nói giảm nói tránh, hoán dụ, ẩn dụ, Quang Dũng đã mô tả lại một đoàn binh Tây Tiến với nhiều vẻ đẹp khác nhau, họ đẹp từ hình dáng đến tinh thần, mạnh mẽ từ ánh mắt đến tính cách và cả sự hy sinh cao cả. Tất cả đều vì lòng yêu nước, khát khao sống trong hòa bình và hạnh phúc, không còn những nỗi đau mất mát. Đoạn thơ này có cả âm nhạc, hình ảnh, vừa bi thương lại vừa kiêu hãnh. Những hình ảnh về đoàn quân Tây Tiến trở thành một ký ức khó phai của một thời kỳ lịch sử hùng vĩ.
Phân tích bài thơ Tây Tiến đoạn 3 – Mẫu 3
Mọi cuộc chiến tranh sẽ qua đi, thời gian có thể phủ lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng đã khắc sâu vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã hy sinh vì sự độc lập của Tổ quốc trong suốt lịch sử. Trong thơ của Quang Dũng, một tượng đài bất tử về những người lính cách mạng trong cuộc chiến chống Pháp xâm lược đã được xây dựng lên. Đó là một tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những năm tháng gian khổ trở nên bất tử cùng với thời gian:
‘Đoàn quân Tây Tiến chống giặc không mọc tóc…Sông Mã vang lên giai điệu duy nhất của sự độc hành
‘Tây Tiến’ của Quang Dũng là một dòng ký ức đầy nỗi nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu, nhưng cũng có những người đã hy sinh, trở về với đất mẹ yêu thương. Dù họ nằm nghỉ bên lãnh địa hay miền viễn xứ, họ vẫn mãi mãi trong lòng người. Quang Dũng không chỉ tái hiện lại hình ảnh của đoàn quân Tây Tiến trên những con đường đầy gian khổ, mà còn cho thấy cuộc sống vẫn rạng ngời như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Anh cũng mô tả tình cảm mạnh mẽ giữa quân và dân. Ông cũng đề cập đến ý tưởng về việc xây tượng đài cho người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Quang Dũng sử dụng ngôn từ giàu hình ảnh, những kỹ thuật văn chương để khắc sâu vào tâm trí người đọc hình ảnh những anh hùng của dân tộc. Bức tượng đài đó hiện lên trong không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các dòng thơ:
‘Đoàn quân Tây Tiến… giai điệu duy nhất của sự độc hành’
Bức tượng đài người lính Tây Tiến được mô tả qua những nét vẽ nhằm nhấn mạnh cuộc sống khó khăn của họ. Trong khung cảnh của đêm liên hoan, đêm lửa trại, hình ảnh đoàn quân không mọc tóc như những cành cây xanh. Quang Dũng không tránh khỏi mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải đối mặt. Sốt rét rừng khiến tóc họ không thể mọc (không phải do họ cạo trọc để làm giảm đau đớn như nhiều người nghĩ). Da họ xanh như lá cây do sốt rét (không phải để ngụy trang). Dù vậy, thế giới tinh thần của họ lại thể hiện sức mạnh và quyết tâm. Chúng ta thấy họ là những chiến binh anh hùng, đầy sức mạnh, quyết liệt. Quang Dũng mô tả người lính với những gì khắc khổ nhưng vẫn phản ánh sự hùng mạnh của cuộc sống. Câu thơ ‘Đoàn quân Tây Tiến chống giặc không mọc tóc’ với những âm vang khiến cho câu thơ sống động hơn. Thủ pháp tương phản được sử dụng ở câu thơ ‘Quân xanh màu lá dữ oai hùm’ không chỉ làm nổi bật sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc. Hai từ ‘đoàn quân’ mang lại cảm giác trang trọng, hùng dũng. ‘Tây Tiến’ mở đầu câu thơ không chỉ là tên của đoàn quân, mà còn là biểu tượng cho một đoàn quân dũng mãnh vượt qua mọi thách thức. Sử dụng thủ pháp tương phản, Quang Dũng đã tạo ra một hình ảnh sắc nét về người lính Tây Tiến.
‘Hoành sóc giang san cáp kỷ thuTam quan kỳ hổ khí thôn ngưu’
Và thậm chí Hồ Chí Minh trong bài thơ ‘Đăng sơn’ cũng viết:
‘Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩuThể diện sài long xâm lược quân’
Có thể nói Quang Dũng đã áp dụng một mẫu chuyện có xu hướng phương Đông sâu sắc trong câu thơ để tạo ra âm thanh của lịch sử, hình ảnh người lính cách mạng gắn bó với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Khi đọc câu thơ: ‘Quân xanh màu lá dữ oai hùm’, ta như nghe thấy tiếng vang của một tinh thần cao quý từ châu Á.
Hình ảnh người lính Tây Tiến trở nên lấp lánh hơn khi Quang Dũng thêm vào bức tượng đài này một vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn của họ:
‘Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm’
Đầu tiên, đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, về thủ đô. Người lính dù ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi nhưng lòng luôn mong mỏi về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
‘Từ thuở mang gươm đi mở nướcNghìn năm thương nhớ đất Thăng Long’
Người lính Tây Tiến dù ‘mắt trừng gửi mộng qua biên giới’ nhưng tình yêu và nhớ mong vẫn hướng về một ‘dáng kiều thơm’. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta chỉ trách móc thói tiểu tư sản, thế nhưng chính nhờ vẻ đẹp của tâm hồn ấy mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, họ trở thành biểu tượng của vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo ra một sự tương phản độc đáo – những chiến sĩ kiên cường với ý chí sắt thép cũng là những con người có cuộc sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn mang trái tim rung động với nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến được tạo ra bằng những nguồn ánh sáng tương phản, kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn. Mỗi đường nét đều rất nổi bật và tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ. Điều này cũng là đặc điểm nổi bật của thơ Quang Dũng.
Nếu trong 4 câu thơ trước đó, người lính Tây Tiến hiện ra như một đoàn binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được tạo ra bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, từng hình ảnh riêng rẽ, người ta dễ cảm nhận một cách bi lụy về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy ít khi nói đến. Nhưng khi đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong ngữ cảnh của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình ảnh vì thế không chỉ mang tính bi lụy mà còn có sức mạnh tinh thần cao cả.
Có thể thấy câu thơ: ‘Rải rác biên cương mồ viễn xứ’ nếu riêng ra sẽ tạo cảm giác nặng nề, bởi đó là câu thơ về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi ‘viễn xứ’. Mỗi từng chữ dường như là một nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ ‘rải rác’ dễ gợi sự hoang lạnh, lại là ‘rải rác’ nơi ‘viễn xứ’, những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói về nơi yên nghỉ của những người đồng đội:
‘Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời’
Trong Chinh phụ ngâm:
‘Hồn tử sĩ gió về ù ù thổiMặt chinh phu trăng dõi dõi soiChinh phu tử sĩ mấy ngườiNào ai mạc mặt nào ai gọi hồn’
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm áp của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng ‘Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh’. Đồng thời câu thơ thứ hai cũng làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là sự hỗ trợ lẫn nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính được tôn vinh trong câu thơ ‘áo bào thay chiếu anh về đất’. Quang Dũng thể hiện tình cảm sâu đậm đối với đồng đội của mình qua câu thơ ấy. Không ai có thể phủ nhận sự đau lòng của ông đối với cảnh tiễn biệt khó khăn, thiếu thốn, những người lính Tây Tiến hy sinh vì sốt rét hơn là chiến trận.
Hai câu thơ với âm hưởng bi tráng, gợi lên hình ảnh của sự hy sinh cao cả – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:
Áo bào thay chiếu anh về đất.Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Dù chỉ là hai câu thơ về mặt hình thức, nhưng chúng vẫn khiến cho cảm xúc trỗi dậy mạnh mẽ. Sau mỗi từ, cảm thấy những giọt nước mắt lăn dài. Hai câu thơ sắc sảo và sâu lắng, khiến người đọc cảm thấy thương cảm và đau lòng. ‘Anh về đất’ là biểu tượng cho sự hoàn thành nhiệm vụ, sự kết thúc kiêng cử của một người lính. Tiếng gầm của sông Mã vang lên như tiếng rền của pháo binh, chào tạm biệt những người con yêu dấu.
Bức tượng đài người lính cách mạng được Quang Dũng xây dựng kết hợp hài hoà giữa thực tế và cảm xúc lãng mạn, là biểu tượng của sức mạnh dân tộc trong thời đại mới, thời đại của cuộc kháng chiến vĩ đại chống lại thực dân Pháp. Đó là biểu tượng được tạo nên từ tình yêu sâu đậm của Quang Dũng dành cho đồng đội và đất nước. Từ bức tượng đài, tiếng hát ca tụng của nhà thơ cũng như của toàn dân về những anh hùng kia vang vọng lên.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến – Mẫu 4
Quang Dũng (1921 – 1988) là một nghệ sĩ đa tài, sở hữu hồn thơ phóng khoáng, tình cảm, lãng mạn và tài năng, đặc biệt là khi ông sáng tác về những người lính Tây Tiến và vùng quê xứ Đoài của mình. Trong tất cả các tác phẩm của ông, bài thơ Tây Tiến được coi là xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông. Bằng cách sử dụng ngôn từ lãng mạn và sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, ông đã thể hiện một cách rõ ràng nỗi nhớ sâu sắc của mình về những người lính dũng cảm của Tây Tiến và vẻ đẹp hùng vĩ của miền Tây. Có thể nói, nỗi nhớ của Quang Dũng đối với những đồng đội Tây Tiến đã được ghi lại trong tám câu thơ khắc sâu bức chân dung của họ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmMắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơmRải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ Tây Tiến được xuất bản trong tập thơ “Mây đầu ô” (năm 1986), nhưng đã trở thành tác phẩm kinh điển được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh sau khi ông rời khỏi đoàn quân Tây Tiến để gia nhập một đơn vị khác. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ hỗ trợ quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào và tiêu diệt quân Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Quân đội Tây Tiến đa số là thanh niên Hà Nội, bao gồm nhiều sinh viên và học sinh, trong đó có cả Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, và bị ảnh hưởng bởi dịch sốt rét, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu mạnh mẽ và lạc quan. Sau hơn một năm hoạt động, đơn vị Tây Tiến đã trở về Hoà Bình để thành lập trung đoàn 52. Ban đầu, tên của bài thơ là “Nhớ Tây Tiến”, nhưng sau đó được đổi thành “Tây Tiến”. Bài thơ được sáng tác dựa trên ký ức, kỷ niệm và nỗi nhớ của Quang Dũng về đơn vị cũ của mình. Do đó, toàn bộ bài thơ là một biểu hiện của tình cảm sâu sắc và đầy xúc động.
Bài thơ được chia thành 4 phần. Phần 1 tả nỗi nhớ về những cuộc hành quân khắc nghiệt của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ của miền Tây. Phần 2 là những kỷ niệm đẹp về mối quan hệ giữa quân và dân trong những buổi liên hoan đêm và cảnh đẹp của miền Tây. Phần 3 tái hiện hình ảnh của người lính Tây Tiến. Phần 4 là lời thề trung thành với Tây Tiến và miền Tây. Bài thơ toát lên tài năng và cảm xúc của Quang Dũng, với sự phóng khoáng và lãng mạn. Nhờ vào tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh của người lính Tây Tiến, với vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ của miền Tây.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ về những cánh rừng mà còn ghi nhớ về những người đồng đội cùng nhau vượt qua đèo lội suối, vượt qua hàng ngàn thử thách, đối mặt với sinh tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và tái hiện bức chân dung của họ với vẻ đẹp trang trọng và kiêu hãnh. Quang Dũng đã chọn những đặc điểm tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạo ra một tác phẩm tượng đài tập thể, thể hiện được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Những người lính phải sống trong điều kiện thiếu thốn và chiến đấu nên:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét đáng sợ mà người lính thường phải đối mặt. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ cũng không giấu diếm sự gian khổ, khó khăn và căn bệnh đáng sợ đó cũng như sự hy sinh lớn lao của người lính Tây Tiến, nhưng hiện thực đó lại được nhìn nhận qua một tâm hồn lãng mạn. Những người lính với đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giặc, những đầu bị rụng tóc, vẻ mặt xanh xao vì đói khát, vì sốt rét, những điều này qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy vừa oai hùng, vừa đong đầy tình yêu thương:
“Ánh mắt đầy quyết tâm gửi ước mơ về phía biên giớiTrong giấc mơ, Hà Nội hiện lên dáng vẻ kiều diễm”.
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt rộng mở và đầy quyết tâm gửi đi những ước mơ về nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn giữ chỗ cho những hình bóng du dương của Hà Nội, những người em, những người bạn gái thân thương ở quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn sâu sắc đã tạo ra bức tranh về người lính không chỉ qua bề ngoài mà còn từ bên trong, thể hiện thế giới tâm hồn mơ mộng, giàu có của họ.Trong chiến tranh, sự mất mát và hy sinh là điều không thể tránh khỏi. Quang Dũng đã đề cập đến hiện thực này một cách không che giấu theo cách riêng của ông:
“Những mảnh đất nghĩa trang rải rác trên biên cương xa xôiChấp nhận hy sinh không tiếc mạng sống trẻ thơ”.
Các từ ngữ cổ kính như “biên cương”, “nghĩa trang”, “xa xôi”, “chiến trường” kết hợp với từ thường ngày “rải rác” đã làm giảm đi phần nào sự bi thương, làm cho những cảm xúc về sự mất mát trở nên nhẹ nhàng hơn. Điều nổi bật là vẻ đẹp lãng mạn của tinh thần hy sinh, sự sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc của các người lính Tây Tiến. Câu nói “không tiếc mạng sống trẻ thơ” nhấn mạnh vào ý nghĩa cao cả của việc hy sinh vì đất nước.Hai câu thơ:
“Chiếc áo bào thay cho tấm chiếu che trên mộ anhSông Mã gầm lên như điệu nhảy lễ hội mừng vui”
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm vợi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến – Mẫu 5
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng viết : ‘Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy.’ Thật vậy! Cái nhụy sống ấy đã nảy nở trong trái tim của Quang Dũng – một con người rất mực đa tài. Quang Dũng, lớp nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã mang đến cho đời cái ‘nhụy’ có vị ngọt của cảm hứng ‘lãng mạn, anh hùng’ trong những năm kháng chiến đau thương. Để rồi, kết trái thành ‘Tây Tiến’, một bản hùng ca tuyệt vời về với hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ:
‘Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…Sông Mã gầm lên khúc độc hành.’
Chính vẻ đẹp nơi người lính ấy đã tô vẽ nên vẻ đẹp trong ngòi bút của Quang Dũng. Không chỉ viết thơ, Quang Dũng còn làm văn, vẽ tranh, soạn nhạc, nhưng thơ ca chính là cây cầu linh diệu nhất bắc nhịp nhà thơ với cuộc đời. Hồn thơ Quang Dũng mang nét phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và rất đỗi tài hoa. Ông xuất thân là một người lính của binh đoàn Tây Tiến, một đơn vị quân đội thành lập mùa xuân năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Các chiến binh Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội trong đó có nhiều học sinh, sinh viên như Quang Dũng. Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh – một làng ven bờ sông Đáy, Quang Dũng viết bài ‘Nhớ Tây Tiến’ sau đổi tên thành ‘Tây Tiến’ in trong tập ‘Mây đầu ô’ (1986). ‘Tây Tiến’ là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
Quang Dũng đã khắc họa thành công tập thể người lính Tây Tiến như một bức tượng đài bằng thơ về những người lính, và bức họa ấy vẫn luôn sừng sững, sống mãi những vẻ đẹp hào hùng của một thời trai trẻ:
‘Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá giữ oai hùm’
Nhà thơ dùng từ ‘đoàn binh’ để khẳng định một lực lượng đông đảo, ‘đoàn binh’ Tây Tiến là đội quân mạnh và hừng hực khí thế. Đầy hiên ngang và tự tin, nhịp thơ như nhịp bước chân hành quân của người lính, đưa ta đến gần hơn với bức chân dung về các anh, từ ngoại hình bên ngoài đến cảm xúc, ý chí nung nấu trong tâm can. Đó là những người lính đầu ‘không mọc tóc’, da ‘xanh màu lá’. Ấy là sự ngụy trang đề phòng quân địch. Nhưng chân thực hơn, ấy là sự tàn phá của bệnh tật, của hoàn cảnh sống thiếu thốn trăm bề. Nơi rừng thiêng nước độc, nơi chiến trường xa xôi, binh đoàn Tây Tiến làm sao tránh khỏi những cơn sốt rét rừng, những lần thiếu thuốc men, lương thực, khó khăn cứ nối tiếp khó khăn, sự khắc nghiệt vẫn luôn thử thách ý chí người lính trẻ như thế. Giống như trong một vần thơ khác, tác giả Chính Hữu đã từng khắc họa rõ nét những thiếu thốn, gian khổ trong thuở đầu ra trận ấy:
‘Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnhSốt run người vầng trán ướt mồ hôiÁo anh rách vai, quần tôi có nhiều mảnh váMiệng cười buốt giá, chân không giàyThương nhau tay nắm lấy bàn tay’
(‘Đồng chí’ – Chính Hữu)
Giữa những gian khổ, khó khăn của thực tại, những người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp vẫn mang trong mình sự lạc quan, dí dỏm trong những vẫn thơ Chính Hữu, còn giọng thơ ‘Tây Tiến’ lại sục sôi khí thế, căng tràn ý chí, viết về gian khổ, khó khăn nhưng nhà thơ Quang Dũng vẫn luôn song hành đem đến những vần thơ đầy quyết tâm ‘dữ oai hùm’. Nét hào hùng được nhấn mạnh giữa một hiện thực nhiều gian khổ, đậm tô những hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm, vui tươi hóa của Quang Dũng về những người đồng đội của mình. ‘Dữ oai hùm’ là hình ảnh khẳng định tinh thần vượt lên trên khó khăn vì mục tiêu chiến đấu phía trước, bệnh tật, thiếu thốn không thể đánh bại được ý chí quyết tâm của những người lính Tây Tiến. Những chi tiết tả thực đã khắc họa một diện mạo rất độc đáo về người lính đang chiến đấu nơi biên cương Tổ quốc, đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng, cách viết đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất, xanh xao tiều tụy, đầu ‘không mọc tóc’, da ‘xanh màu lá’ với sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàng, lẫm liệt, sức mạnh ‘dữ oai hùm’. Quang Dũng đã thật khéo khi lấy cái ‘thô’, cái ‘mộc’ để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ hào hùng, dũng cảm và lạc quan.
Nhưng chỉ dừng lại ở đó thì đâu gì gọi là Quang Dũng bởi những người lính dũng cảm, lạc quan ấy còn mang một tâm hồn hào hoa và lãng mạn của những chàng trai Hà Thành. Quang Dũng đã viết hai câu thơ rất đặc sắc:
‘Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm’
‘Mắt trừng’ là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác, ánh mắt ‘trừng’ của người lính Tây Tiến vẫn luôn hướng về bên kia biên giới, ánh mắt của sự căm thù, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Ánh mắt trừng mà Quang Dũng khắc họa có sức mạnh như lời tuyên chiến trước quân thù, rất oai phong, hào hùng thể hiện ý chí và quyết tâm của những người lính vệ quốc:
‘Đoàn Vệ quốc quân một lần ra điNào có xá chi đâu ngày trở vềRa đi ra đi bảo tồn sông núiRa đi ra đi thà chết chớ lui.’
Xem thêm : Nhà tuyển dụng có đánh giá cao CV trên 2 trang hay không?
Và gửi theo ánh mắt quyết tâm và lòng kiên trì ấy là giấc mộng chinh phu – giấc mộng của chí trai thời loạn, giấc mộng lập công danh, đền nợ nước trả thù nhà. Những chàng trai tuổi đời còn rất trẻ đã không do dự xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận, sẵn sàng gánh trên vai ‘món nợ’ núi sông. Chỉ với một hình ảnh thôi mà nhà thơ Quang Dũng đã khiến ta yêu nhiều và khâm phục nhiều tinh thần của người lính Tây Tiến. Những năm tháng ấy, các anh ngay cả khi đang cảnh giác trước quân địch, cũng ôm nỗi nhớ niềm thương về thị thành quê hương ‘đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm’. Mơ về Hà Nội với ‘dáng kiều thơm’, với hình ảnh những thiếu nữ Hà thành duyên dáng trong tà áo dài thướt tha, một giấc mơ lãng mạn và hào hoa mà ta chỉ có thể bắt gặp ở tâm hồn người lính trẻ xuất thân chủ yếu là thanh niên tri thức thu đô, ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, phải chăng nỗi nhớ quê nhà, nhớ người thương lại là động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức lực để các anh vững tin vào khát vọng của mình, khát vọng lập công danh, đem hòa bình lại cho Tổ quốc. Vũ Quần Phương có nhận xét: ‘Hai câu thơ như chứa đựng cả thế giới’. Sự tương đồng trong hai nét nghĩa ‘mộng’ và ‘mơ’, sự tương phản của hai thế giới ‘nghĩa chung’ và ‘tình riêng’ đã cùng làm nên vẻ đẹp toàn vẹn của người lính: họ không chỉ có lí tưởng cao cả, ý chí kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn mà còn là những chàng trai lãng mạn, mơ mộng có trái tim chan chứa tình yêu thương. Cũng giống như hình ảnh trong một buổi sáng mùa thu trước cách mạng:
‘Người ra đi đầu không ngoảnh lạiSau lưng thềm nắng lá rơi đầy’
(Nguyễn Đình Thi)
Hình ảnh những chàng trai Hà Nội trong đoàn quân Tây Tiến cũng thật kiêu hùng, lãng mạn khi tình yêu thương là động lực để họ ra đi chiến đấu, còn lý tưởng cách mạng lại khiến tình yêu thương thêm cao cả, lớn lao. Đó chính là nét đẹp khắc họa chân thực và cảm động về cả thế hệ người Việt Nam dằn lòng gạt tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn.
Khép lại đoạn thơ, Quang Dũng đưa ta đến với hiện thực đau thương, nơi biên cương hẻo lánh rải rác những ngôi mộ không bia. Sự lạnh lẽo, hoang vắng tràn vào từng câu chữ cho sự khốc liệt và hơn hết là những đau thương, mất mát của cuộc chiến tranh:
‘Rải rác biên cương mồ viễn xứ’
Trên nền hiện thực ấy, những người lính bước qua con đường đầy máu và mộ phần để tiếp tục ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc mà không hề nao núng. Chính vì thế, nhà thơ sử dụng một loạt những từ Hán Việt như ‘biên cương’, ‘viễn xứ’ làm cho câu thơ trở nên trang trọng, mang trong mình không khí cổ kính, như đang kể lại những trận chiến lừng danh thuở xưa của cha ông ta. Lồng ghép vào trong đó là lý tưởng của một thời đại mới ‘chẳng tiếc đời xanh’ – ‘Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh’. Chúng ta nhận thấy rõ sự đối lập khốc liệt giữa những sự vật: ‘chiến trường’ – là mưa bom bão đạn, là cái chết cận kề, ‘đời xanh’ – là tuổi trẻ, là ước vọng, là tương lai. Quang Dũng đã thay đồng đội mình, những anh hùng Tây Tiến, tuyên ngôn đầy ngạo nghễ, thể hiện sự lạc quan và tràn đầy chất lính: ‘Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh’. ‘Chẳng tiếc’ vang lên như một lời khẳng định coi nhẹ cái chết, trong tim họ. Lời khẳng định của những chiến binh Tây Tiến năm ấy đã thể hiện vẻ đẹp lý tưởng của thế hệ thanh niên một thời:
‘Chúng tôi đi không tiếc đời đời mìnhNhững tuổi hai mươi làm sao chẳng tiếcNhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc’
(‘Khúc bảy’, Thanh Thảo)
Với thi nhân, chết không bao giờ là hết. Bằng việc sử dụng hình ảnh ‘áo bào thay chiếu’, ông đã bi tráng hóa cái chết của con người, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính, ‘anh về đất’ biến cái chết trở thành một sự nghỉ ngơi sau những quãng đường xông pha chiến trận làm không khí cả bài thơ bi nhưng không hề lụy. Cái chết của các anh, sự hy sinh của các anh luôn là sự nhắc nhớ trong trái tim đồng đội, đồng bào, sự hi sinh ấy lặng lẽ, âm thầm nhưng luôn cao cả và đáng kính:
‘Họ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra đất nước.’
(‘Đất Nước’, Nguyễn Khoa Điềm)
Trở lại với những vần thơ ‘Tây Tiến’, Quang Dũng không trốn tránh hiện thực mà đã khắc họa sự hi sinh của những người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên. Và ‘Sông Mã’ được nâng tầm như một nhân chứng lịch sử, chứng kiến hết tất cả tội ác của kẻ thù và cả những chiến công hiển hách của binh đoàn Tây Tiến:
‘Sông Mã gầm lên khúc độc hành’.
Sông Mã từng lóe lên trong tiếng gọi nhưng bài thơ lại là biểu tượng của miền Tây, của quá khứ, nay sống Mã trở lại trong âm thanh dữ dội, hào hùng trong tiễn đưa tử sĩ. Từ tiếng sóng sông Mã, ‘gầm lên’ thể hiện sự dữ dội trong cung bậc cảm xúc sâu sắc với những bi phẫn, đau xót. Sông Mã từng gắn bó với các anh trong chặng đường gian khổ qua miền Tây, nay lại là chứng nhân lịch sử thay cho cả thiên nhiên, đất trời, núi sống gầm vang ‘khúc độc hành’ đưa tiễn những người con yêu quý trở về yên nghỉ trong lòng đất mẹ. Cảm giác mạnh mẽ hào tráng và cô đơn, ngậm ngùi, buồn bã khi đứng trước cái chết, khi đưa tiễn những người thân yêu trong chuyến đi cuối cùng.
Với nét vẽ tinh tế về người lính Tây Tiến, ta thấy vẻ đẹp của ngòi bút xứ Đoài mây trắng. Một ngòi bút lãng mạn và tài hoa. ‘Tây Tiến’ là bài thơ nổi bật của nhà thơ Quang Dũng, mang phong cách riêng. Cảm hứng lãng mạn là chủ đạo, là mạch cảm xúc nhớ nhung về những thời đã qua, đồng đội, đơn vị của mình. Cảm hứng lãng mạn biến bài thơ thành trữ tình, đầy cảm xúc. Bút pháp hiện thực lột tả cuộc sống người lính, gian khổ, thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh.
‘Tây Tiến’ thể hiện phong cách tương phản của Quang Dũng, là bút pháp đậm nét với giá trị biểu cảm mạnh mẽ, là cái bi tráng đến từng xúc động sâu sắc nhất. Người lính Tây Tiến hi sinh anh dũng, làm hiện lên vẻ đẹp toàn diện trong tâm hồn các anh, những người lính kiêu dũng, ngang tàng và lãng mạn, tài hoa.
Quá khứ và chiến tranh đã xa, chỉ còn tình yêu và nỗi nhớ. ‘Tây Tiến’ hoàn thành sứ mệnh của mình, để lại những xúc cảm bâng khuâng. Thời gian mòn cùng với sự trôi chảy, nhưng giá trị của ‘Tây Tiến’ vẫn lớn lên cùng với sự nuôi dưỡng của văn hóa. Như lời thơ của nhà thơ Giang Nam: ‘Tây Tiến biên cương mờ khói lửaQuân đi lớp lớp động cây rừngVà bài thơ ấy con người ấyVẫn sống muôn đời với núi sông.’
Sông Mã từng lóe lên trong tiếng gọi nhưng bài thơ lại là biểu tượng của miền Tây, của quá khứ, nay sống Mã trở lại trong âm thanh dữ dội, hào hùng trong tiễn đưa tử sĩ. Từ tiếng sóng sông Mã, ‘gầm lên’ thể hiện sự dữ dội trong cung bậc cảm xúc sâu sắc với những bi phẫn, đau xót. Sông Mã từng gắn bó với các anh trong chặng đường gian khổ qua miền Tây, nay lại là chứng nhân lịch sử thay cho cả thiên nhiên, đất trời, núi sống gầm vang ‘khúc độc hành’ đưa tiễn những người con yêu quý trở về yên nghỉ trong lòng đất mẹ. Cảm giác mạnh mẽ hào tráng và cô đơn, ngậm ngùi, buồn bã khi đứng trước cái chết, khi đưa tiễn những người thân yêu trong chuyến đi cuối cùng.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến – Mẫu 6
Quang Dũng viết bài thơ ‘Tây Tiến’ năm 1948, tại Phù Lưu Chanh bên bờ sông Đáy: ‘Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc – Sáo diều khuya khúc thổi đêm trăng’ (Mắt người Sơn Tây – 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập từ năm 1947, hoạt động ở thượng nguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa sang Sầm Nứa, trên dải biên cương Việt – Lào. Quang Dũng là một đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người là những chàng trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ ‘Tây Tiến’ nói lên nỗi nhớ của tác giả sau một thời gian xa rời đơn vị: ‘Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…’
Bài thơ có 4 phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu gian khổ… Đoạn thơ trên đây gồm có 16 câu thơ, là phần 2 và phần 3 của bài thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh tự hào về đồng đội thân yêu.
Ở phần đầu, sau hình ảnh ‘Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời’, người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa:
‘Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi’
Bát cơm tỏa khói nồng tình quân dân, lan tỏa hương của ‘thơm nếp xôi’, hương của núi rừng, của Mai Châu,… và hương của tình thương mến.
Mở đầu phần hai là sự tiếp nối cái hương vị ‘thơm nếp xôi’ đó. ‘Hội đuốc hoa’ đã trở thành kỷ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến:
‘Doanh trại sáng rực hội đuốc hoa,Đây em mặc áo nắng tự bao giờKhèn lên vang vọng tiếng nàng e ấpNhạc về Viên Chăn khuấy hồn thơ’
‘Đuốc hoa’ là cây nến đốt trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngôn từ được dùng trong văn học cổ: ‘Đuốc hoa không e dè với chàng mai xưa’ (Truyện Kiều – 3096). Quang Dũng đã tái hiện một cách sinh động lại: hội đuốc hoa – đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. ‘Rực’ chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng rực; cũng như là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười hòa mình vui vẻ rộn ràng. Sự xuất hiện của ’em’, của ‘nắng’ làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỷ niệm đẹp một thời gian chiến đấu. Những cô gái Mường, Thái, hay Lào xinh đẹp, duyên dáng ‘e ấp’, xuất hiện trong bộ trang phục rực rỡ, cùng với tiếng khèn ‘vang vọng’ đã ‘khuấy hồn thơ’ trong lòng những lính trẻ. Chữ ‘đây’ là đại từ trỏ, đứng đầu câu ‘Đây em mặc áo nắng tự bao giờ’ như một tiếng thán phục, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách,… như đã bị xua đuổi và tan biến.
Rời xa Tây Tiến, bao ngày trôi qua mà nhà thơ vẫn ‘nhớ về’, nhớ ‘hội đuốc hoa’, nhớ ‘chiều sương Châu Mộc ấy’. Có phải ‘người đi’ hay tự hỏi mình ‘có thấy’ và ‘có nhớ’. Bao kỷ niệm sâu sắc và lãng mạn lại hiện lên và tràn về:
‘Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó cảm nhận hồn lưu lạc trên bờ sôngCó nhớ dấu vết người trên chiếc gheĐi theo dòng nước hoa lá đong đưa’
Chữ ‘ấy’ kết hợp với ‘thấy’, một cảm giác sâu lắng, âm điệu câu thơ giảm nhẹ xuống như một nốt nhấn, một kỷ niệm nhẹ nhàng. Người phụ nữ xưa nhớ đến kinh thành Thăng Long là nhớ ‘hồn thu thảo’, còn Quang Dũng nhớ là nhớ ‘hồn lau’, nhớ cảm giác của gió, nhớ những lá cỏ lau trắng. Chỉ khi ‘nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi’ thì mới cảm nhận được và ‘cảm nhận hồn lau’ trong kí ức. ‘Cảm nhận’… rồi lại ‘nhớ’, một phong cách viết mềm mại, uyển chuyển, đúng là ‘câu thơ trước gợi câu thơ sau’ như những kỷ niệm trở về… Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dấu vết người) cùng chiếc thuyền đơn mộc ‘đi theo dòng nước hoa lá đong đưa’. Hình ảnh ‘hoa lá đong đưa’ là một cảm giác lãng mạn mô tả cái ‘dấu vết người trên chiếc ghe’ trôi theo thời gian và dòng kí ức. Đoạn thơ tạo ra một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên nền ‘chiều sương ấy’. Cảnh và người được cảm nhận và nhớ mang nhiều cảm xúc bâng khuâng. Phong cách viết, thơ pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.
Trong những ‘bến bờ’, ‘độc mộc’, ‘dòng nước lũ’ là ‘hồn lau’, là ‘dấu vết người’, là ‘hoa lá đong đưa’ tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một ‘chiều sương’ hoài niệm. Tưởng chừng như thực nhưng lại lãng mạn, tài hoa.
Phần ba của bài thơ đề cập đến đoàn binh Tây Tiến. Quang Dũng sử dụng phong cách viết hiện thực để tạo nên bức chân dung của những người bạn thân yêu của mình. Ở phần một nói về con đường hành quân cực kỳ gian khổ để thể hiện sự gan dạ dũng cảm của các chiến sĩ Tây Tiến; Phần hai, đi sâu vào miêu tả vẻ đẹp lãng mạn của những chiến binh hào hoa, yêu đời. Phần ba này, người đọc cảm thấy nhà thơ đang nhớ, đang ngắm nhìn, đang hồi tưởng, đang suy nghĩ về từng khuôn mặt thân thương, đã cùng mình trải qua nhiều gian khổ một thời trận mạc. Như một đoạn phim gần như thực tế gợi lên cái dữ dội, cái khốc liệt một thời máu lửa oai hùng. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc qua 4.000 năm lịch sử được nâng lên tầm cao mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh:
‘Tây Tiến đoàn binh không tóc gáyQuân xanh màu lá hung hãnÁnh mắt trừng gửi ước mơ vượt biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm ngát’
Những dòng thơ đậm chất hiện thực, nửa thế kỷ sau vẫn khiến người đọc đắm chìm trong khói lửa, tiếng súng vang vọng, những gương mặt hào hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. ‘Đoàn quân không mọc tóc’, ‘Quân phục xanh’, trái ngược với ‘dữ oai hùm’. Cả ba hình ảnh đều sắc nét, góc cạnh hình ảnh những ‘Vệ túm’, ‘Vệ trọc’ thời gian khó khăn được miêu tả một cách ngây ngô. Quân phục xanh, da xanh và đầu không tóc vì cảm rét rừng, nhưng vẫn kiêu hãnh, chiến đấu giữa rừng cây ‘dữ oai hùm’ khiến kẻ thù kinh hãi ‘Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu’ như các anh hùng ‘Sát Thát’ thời Trần; ‘Tướng sĩ kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh’ là tấm gương của các nghĩa sĩ Lam Sơn. ‘Quân phục xanh dữ oai hùm’ là sự kiêu hãnh mạnh mẽ của đội quân cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Dù gian khổ và khốc liệt, họ vẫn mơ mộng. ‘Mắt trừng gửi mộng qua biên giới’; Mơ mộng giết giặc, tiêu diệt đội quân xâm lăng ‘xác thù chất đống xây thành chiến công’. Trên chiến trường, giữa lửa đạn, ‘mắt trừng’, trong đêm khuya, có những giấc mơ đẹp: ‘đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm’. Ba chữ ‘dáng kiều thơm’ từng in sâu trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng mang vào thơ mình diễn tả cái phong độ hào hoa, đa tình của các chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ mộng, nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một ‘dáng kiều thơm’. Ngòi bút của Quang Dũng biến hóa, lúc giản dị mộc mạc, lúc mơ mộng nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hoa tài năng của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt của những anh hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ ‘Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh’ vang lên như một lời thề ‘Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh’. Bao nhiêu chiến sĩ đã rơi xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ rộng lớn: ‘Rải rác biên cương mồ viễn xứ…’ Các anh đã ‘về đất’ một cách bình yên, thanh thản; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu.
Không có ‘da ngựa bọc thây’ như các anh hùng ngày xưa, chỉ có ‘áo bào thay chiếu anh về đất’, nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã ‘gầm lên’ như một chuỗi tiếng đại bác nổ tung trời, ‘khúc độc hành’ ấy đã tạo nên không khí thiêng liêng, bi tráng và cao cả:
‘Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành’
Các từ Hán Việt đột ngột xuất hiện trong đoạn thơ (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) làm nổi bật sự cổ kính, tráng lệ và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh. Có xót xa thương tiếc. Không yếu đuối mềm yếu, vì sự hy sinh đã được khẳng định qua một lời thề: ‘Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh’. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong dòng thơ. Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của thơ ca kháng chiến thể hiện một cách cảm động về sự hy sinh dũng cảm của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, các nhà thơ thời kháng Mĩ mới viết được những dòng thơ cảm động như thế:
‘Họ đã sống và khuấtGiản dị và bình anKhông ai ghi nhớ mặt hoặc đặt tênNhưng họ đã góp phần xây dựng Đất nước’
(‘Đất nước’ – Nguyễn Khoa Điềm)
Những năm tháng chiến tranh đã qua đi. Đoàn binh Tây Tiến, những ai còn sống, ai đã ra đi, những ai đã ‘đặt đá ven rừng ghi lại chiến công’? ‘Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?’ – trong những ngày chiến tranh, ít ai trở về từ cuộc chiến còn sống.
Đoạn thơ trên thể hiện lòng tốt và tài năng của Quang Dũng. Nếu Chính Hữu, qua bài ‘Đồng Chí’, đã miêu tả rất tốt về người nông dân mặc áo lính, thì Quang Dũng, với bài thơ ‘Tây Tiến’, đã tạo ra một tượng đài uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội ‘mang gươm đi giữ nước’ dũng cảm, can trường, trong những ngày chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Anh hùng, hào hoa là hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến.
Đoạn thơ trên thể hiện tính cách và phong cách lãng mạn, tài hoa của Quang Dũng. Nếu ‘thơ là biểu hiện của con người và thời đại một cách cao đẹp’ thì ‘Tây Tiến’ đã làm cho chúng ta cảm nhận được điều đó. ‘Tây Tiến’ đã mang lại cái đẹp độc đáo của một bài thơ về người lính – anh bộ đội cụ Hồ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ này tổng hợp mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến tôn vinh chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến – Mẫu 7
Quang Dũng là một trong những nghệ sĩ vô cùng tài năng. Ông không chỉ làm thơ mà còn biết vẽ tranh, sáng tác nhạc. Thơ của Quang Dũng đậm chất lãng mạn, hào hoa, thấm đẫm tình cảm và tinh thần dân tộc. Bài thơ Tây Tiến là một minh chứng cho điều đó.
Ban đầu, bài thơ được đặt tên là “Nhớ Tây Tiến”. Sau đó, “nhớ” được loại bỏ chỉ giữ lại “Tây Tiến” bởi Quang Dũng cảm thấy rằng bài thơ đã thể hiện đầy đủ nỗi nhớ, và độc giả sẽ cảm nhận được điều đó. Bài thơ được tạo ra trong những năm tháng không thể quên, từ một môi trường sống và chiến đấu không thể quên của người lính.
Bài thơ được viết vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi ông đã chuyển đến đơn vị mới và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ thể hiện sự nhớ nhung của tác giả về kỷ niệm với thiên nhiên Tây Bắc và đơn vị cũ của mình. Trong tác phẩm, hình tượng những người lính Tây Tiến được mô tả rõ nét trong đoạn thơ thứ 3:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Đoàn quân Tây Tiến đã ghi lại trong tâm hồn của Quang Dũng những ý tưởng tốt đẹp nhất của tuổi trẻ khi nó được thành lập vào năm 1947, với Quang Dũng làm đại đội trưởng. Nhiệm vụ của đoàn quân là phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới giữa Việt Nam và Lào. Đội quân chủ yếu bao gồm học sinh, sinh viên, và công nhân thành thị từ mọi lĩnh vực, họ đã hòa nhập thành một đội quân đoàn kết. Dù cuộc sống trên chiến trường đầy gian khổ và thiếu thốn, họ vẫn tỏa sáng với phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ – tinh thần lãng mạn, lạc quan, không sợ khó khăn. Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp hoành tráng như sau:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmMắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hình ảnh “không mọc tóc” thể hiện sự thật khắc nghiệt của cuộc sống và chiến đấu của các chiến sĩ Tây Tiến nhưng vẫn đầy phong cách và ngang tàng. “Quân xanh màu lá” đối lập với “Không mọc tóc”, “quân xanh” – ‘dữ oai hùm” thể hiện sự xanh xao tiều tụy vì sốt rét. Tuy nhiên, từ bên trong con người, họ vẫn phát ra sự oai nghiêm như những con hổ ở rừng sâu, làm nổi bật tính cách dũng cảm của người lính.
Sự oai phong được thể hiện qua ánh mắt. “Mắt trừng” là ánh mắt quyết liệt, đầy nhiệt huyết, mang theo ước mơ tiêu diệt kẻ thù. Họ rất can đảm, kiên cường, đối mặt với súng đạn của địch vẫn đứng thẳng, nhưng vẻ đẹp lãng mạn vẫn hiện rõ, sâu sắc trong tâm hồn họ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, Quang Dũng đã không ngần ngại diễn đạt, ông đã dành những từ ngữ cực kỳ trang trọng khi nói về vẻ đẹp của các cô gái Hà Nội: bên trong sự oai hùng, dữ dộn là trái tim, là tâm hồn khao khát cuộc sống:
Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành
Đó là những câu thơ sâu sắc thể hiện vẻ đẹp của sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Các từ Hán Việt cổ kính, trang trọng như “biên cương, mồ viễn xứ” tạo ra một không khí trang nghiêm, hùng vĩ, làm giảm đi hình ảnh của những nấm mồ chiến sĩ trong rừng hoang biên giới lạnh lẽo, hoang vu. Vẻ đẹp bi tráng còn được thể hiện qua sự kiêu hãnh của người lính, những tư tưởng anh hùng lãng mạn, coi cái chết như nhẹ nhàng như lông hồng, quyết tâm hiến dâng cuộc sống cho đất nước:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành
Từ ngữ ước lệ “áo bào” gợi lên vẻ đẹp bi tráng của sự hy sinh: nhìn thấy cái chết của đồng đội trên chiến trường là sự hy sinh vô cùng trang trọng của người anh hùng chiến trận. Biện pháp nói giảm: “anh về đất” làm giảm đi sự đau thương khi nói về cái chết của người lính Tây Tiến. Biện pháp cường điệu: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” để nói lên rằng thiên nhiên đã tấu lên bản nhạc hùng tráng đưa tiễn người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến ra đi trong khúc nhạc bất diệt.
Bằng những câu thơ mang đầy bi tráng, đoạn thơ mô tả người lính từ hình ảnh bề ngoại đến tâm hồn, đặc biệt là tính cách hào hoa lãng mạn bi mà không lụy. Những con người đã tạo nên vẻ đẹp hào hoa của một thời. Họ mang những phẩm chất chung của người lính cụ Hồ.
Bài thơ là một khúc ca bi tráng và tinh thần lãng mạn về hình ảnh người lính Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Mặc dù gian khổ, thiếu thốn nhưng vẫn gợi lên phẩm chất anh hùng hào hoa, lãng mạn.
………
Tải file tài liệu để đọc thêm về phân tích khổ thứ ba của bài thơ Tây Tiến
Nguồn: https://truongnguyentatthanh.edu.vn
Danh mục: Blog
Ý kiến bạn đọc (0)