Blog

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu: Tuyển chọn siêu phẩm

1
Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu: Tuyển chọn siêu phẩm

‘Việt Bắc’ là một bài thơ mang ý nghĩa sâu sắc, được Tố Hữu sáng tác sau chiến dịch Điện Biên Phủ với chiến thắng lịch sử. Để hiểu rõ hơn về bài thơ, bạn có thể đọc phân tích chi tiết trên trang Nguyễn Tất Thành!

Đề bài: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Nội dung chính:1. Dàn ý2. Bài mẫu số 13. Bài mẫu số 24. Bài mẫu số 35. Bài mẫu số 46. Bài mẫu số 57. Bài mẫu số 68. Cảm nhận về bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu9. Thể hiện cảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Việt Bắc10. Phân tích nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng đối với Việt Bắc trong bài Việt Bắc11. Bình luận về bức tranh tứ bình trong bài Việt Bắc

5 mô hình văn mẫu Phân tích tác phẩm Việt Bắc của Tố Hữu 

I. Kết cấu Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Tiêu chuẩn) 

1. Khai mạc:

– Tố Hữu, biểu tượng thơ ca cách mạng Việt Nam, mở đầu cho một trang sử hùng vĩ của dân tộc qua những tác phẩm thơ.- Những bài thơ của ông như những đoạn phim chậm, tái hiện lịch sử rực rỡ của dân tộc.- “Việt Bắc” đặt biệt quan trọng trong tác phẩm của Tố Hữu.  

2. Thân bài

* Tổng quan- “Việt Bắc” ra đời năm 1954, đánh dấu kết thúc chiến dịch chống Pháp thành công.- Bài thơ lấy cảm xúc chia tay lưu luyến giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc.

* Phân tích chi tiết- Bắt đầu bằng giọng người ở:+ Câu đầu tiên giống như lời chia tay của đôi tình nhân, nồng nàn ý nhị mà sâu sắc.→ Sử dụng tình yêu để diễn đạt tinh thần cách mạng.+ Bắt đầu bằng ‘mình’, kết thúc bằng ‘ta’ → Sự xa cách, nhớ nhau.+ Từ ‘nhớ’ xuất hiện ba lần → Dòng cảm xúc lưu luyến, nhớ mãi, tình nghĩa khắp bài thơ.- Tình cảm của người ra đi: Thể hiện qua ký ức về núi rừng Việt Bắc và nhân dân Việt Bắc trong chiến tranh.→ Người đi muốn truyền đạt rằng dù có cuộc sống mới thế nào, thì tình cảm với những người dân ở đó vẫn mãi mãi.

* Tổng đánh giá- “Việt Bắc” là biểu tượng của thơ cách mạng, kết hợp tinh hoa trữ tình và chính trị.- Thể hiện tình dân tộc thông qua việc sử dụng thể thơ truyền thống và lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị, gần gũi.

3. Kết luận: 

Đặt ra nhấn mạnh về giá trị của bài thơ

II. Mẫu văn Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu xuất sắc nhất

1. Mẫu văn Phân tích Việt Bắc ngắn gọn, số 1 (Chuẩn):

Tố Hữu là lá cờ nổi bật trong thơ ca cách mạng Việt Nam, hòa quyện hồn thơ giữa cuộc sống cách mạng và nghệ thuật thơ. Đọc tác phẩm thơ của Tố Hữu, ta bắt gặp những dấu ấn lịch sử quan trọng của đất nước. Các tác phẩm của ông như những chiếc thước phim chậm, ghi lại sự vinh quang của dân tộc. ‘Việt Bắc’ là một trong những tác phẩm như thế.

‘Việt Bắc’ được sáng tác vào năm 1954, lúc cuộc chiến chống Pháp kết thúc thành công. Đây là thời điểm cơ quan trung ương Đảng và chính phủ trở về Hà Nội. Tố Hữu tái hiện cuộc chia tay lưu luyến giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc, người đã sống, chiến đấu và gắn bó với nhau qua mọi gian khổ. Trong bài thơ, ông sử dụng thể thơ lục bát truyền thống kết hợp với lối hát đối đáp như ca dao dân ca để mô phỏng cảnh chia tay đầy nghẹt thở.

Người ở lại luôn dành tình cảm và nhớ thương cho những người ra đi, điều này được thể hiện ngay từ đầu bài thơ Việt Bắc một cách tinh tế:

 “Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Câu khai mạc giống như lời tạ biệt của những đôi tình nhân, đầy ý nhị và sâu sắc. Nhà thơ tinh tế sử dụng gam màu của tình yêu để thể hiện tinh thần cách mạng. Bố cục câu chữ, “mình” mở đầu, “ta” kết thúc, gián tiếp thể hiện sự xa cách, gắn kết và nhớ thương. Từ “nhớ” lặp lại ba lần mở ra dòng cảm xúc lưu luyến, nhớ mãi, tình nghĩa toàn bài thơ.

Bài văn Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu cực kỳ xuất sắc

Đáp lại trái tim của người ở lại, người đi cũng lên tiếng bày tỏ tình cảm:

“Tiếng ai êm đềm trên cồnBâng khuâng trong lòng bồn chồn bước điÁo chàm vẫy lượn phút biệt lyCầm tay nhau, lặng thầm nói lên điều gì hôm nay”

Tiếng trái tim của người ở lại làm cho người ra đi xúc động, bồn chồn. Kí ức khó quên về cuộc sống cách mạng lưu lại trong tâm trí người chiến sĩ. Nỗi buồn đó làm cho khoảnh khắc chia tay trở nên ấm áp, tràn ngập tình lưu luyến. Nó như sợi dây nhỏ níu kéo giữa người ra đi và người ở lại. Mười lăm năm gắn bó đã tạo nên mối liên kết không thể phai nhòa. Họ đã chung sống, chia sẻ mọi khó khăn, từng bữa cơm, chiếc áo, để rồi lúc chia ly, cảm xúc trào ra thành lời:

“Ta và mình, mình và taLòng ta sau trước mặn mà, đầy đặn”

Lúc này, “ta và mình” – “mình và ta” hòa quyện thành một, tạo ra một thể thống nhất không thể tách rời. Hai từ “đầy đặn” như là lời khẳng định vững chắc về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Đó là một tình cảm thiêng liêng, cao quý không thể thay thế.

Trở về cuộc sống thành thị, rời xa Việt Bắc, những người cán bộ chiến sĩ mang theo một nỗi nhớ núi rừng, nhớ những ngày khó khăn, kỷ niệm chiến đấu. Bức tranh sinh động nhiều màu hiện lên, với những hình ảnh gần gũi, quen thuộc. Nó không chỉ là màu sắc, còn là âm thanh của ve, ánh sáng dịu dàng của trăng. Trong bức tranh đó, con người hiện lên giản dị, mộc mạc giữa núi rừng. Thiên nhiên rực rỡ màu sắc, hình ảnh lao động tạo nên một đoạn thơ trữ tình nhất trong Việt Bắc.

Trong ký ức của mình, tác giả không chỉ ghi nhớ về thiên nhiên và con người mà còn hồi tưởng đến những năm tháng chiến đấu khốc liệt:

“Nhớ thời kẻ địch xâm lượcRừng núi chúng ta đánh giặc mặt đối mặtNúi chắn bức tường vững về phía Đất MẹRừng che bộ đội bảo vệ nhân dân”

Từ ngôn ngữ tình cảm, bức tranh chuyển sang khung cảnh hùng vĩ, tràn đầy khí thế. Tác giả đã biến núi rừng Việt Bắc thành một thể thức sống, có linh hồn, trở thành bức tường bảo vệ vững chắc cho nhân dân và người chiến sĩ khỏi sự đe dọa của địch thù. Cảnh cuộc hành quân hùng vĩ cũng được mô tả sôi động. Cuối cùng, người ra đi đã đáp lại câu hỏi của người ở lại:

“Ta về, lòng ta nhớ mãiMái đình yêu thương, cây đa bên triền đồi”

Qua phản hồi này, người ra đi muốn gửi lời chia tay nhẹ nhàng và gửi điều nhắc nhở rằng dù cuộc sống ở thành thị có phong phú và đầy đủ, tình cảm với những người dân nơi này vẫn mãi mãi. Bằng cách này, tác giả điểm lại bài thơ bằng sự chân thành của người ở lại. Cấu trúc đối xứng giữa đầu và cuối thơ một lần nữa làm nổi bật tấm lòng trung thành và vững chắc của người ra đi và người ở lại.

“Việt Bắc” được ví như biểu tượng của thơ ca cách mạng, nơi chất lượng trữ tình và yếu tố chính trị hòa quyện. Không chỉ thế, bài thơ còn thể hiện rõ tình dân tộc bằng cách sử dụng hình thức thơ truyền thống kết hợp với lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị và gần gũi. Bởi những điều này, tác phẩm đã kích thích những tình cảm cao quý nhất của bản sắc dân tộc là lòng trung thành vững vàng.

“Việt Bắc” không chỉ là một câu chuyện cụ thể về sự chia tay giữa người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc, mà còn là hình ảnh toàn cảnh về mười lăm năm chiến đấu gian truân và hào hùng của dân tộc. Điều này làm cho Việt Bắc không ngừng chiếm vị trí quan trọng trong lòng độc giả suốt nhiều năm qua.

2. Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu một cách ngắn gọn nhất, mẫu số 2 (Chuẩn)

 Nếu nói về Phan Bội Châu, ông đã mở đường cho thơ ca trữ tình chính trị. Tố Hữu, sau mấy chục năm, đưa nền thơ ca cách mạng lên đỉnh cao, trở thành hiện tượng vĩ đại trong văn chương Việt Nam. Tố Hữu, một nhà thơ và chiến sĩ cách mạng, đã tận tâm và sáng tạo trong sáng tác và chiến đấu. Giác ngộ cách mạng từ khi còn trẻ, là Đảng viên trẻ tuổi nhất, đóng góp cho sự nghiệp vẻ vang của ông. Tuyến thơ của Tố Hữu liên quan chặt chẽ đến những sự kiện quan trọng, là tư liệu lịch sử bằng văn chương, kết hợp trữ tình và chính trị. Ông là nhà thơ lý tưởng trong văn học Việt Nam hiện đại, thể hiện lòng trung thành với cách mạng, khen ngợi Đảng và đất nước.

Việt Bắc ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, với chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi và ký hiệp định Giơ-ne-vơ. Năm 1954, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị dời cơ quan đầu não về Hà Nội. Việt Bắc của Tố Hữu không chỉ là chia tay, mà là tổng kết kháng chiến, với những tình cảm của người ra đi và người ở lại. Nó có điểm tương đồng với Bình Ngô đại cáo, mặc dù bản chất khác nhau.

5 bài văn Phân tích Việt Bắc xuất sắc

Khung cảnh chia tay mở ra với những vần thơ ân tình, lưu luyến, tái hiện khung cảnh chia ly của người ra đi và người ở lại. Những con người đã sống và chiến đấu cùng nhau, gắn bó, thân thuộc, mang những tình cảm sâu nặng, ấn tượng khó quên.

“Còn nhớ mình không khi về?Mười lăm năm dài, lòng mãn nồng.Còn nhớ không mình về?

Nhìn cây, thấy núi, sông, nguồn…”

– Tiếng lòng, bên cồn khúc khuỷuTrong dạ, bước rờn như chưa rờiÁo chàm buồn, buổi chia tayNắm tay nhau, nói điều gì hôm nay…”

Người ở lại nói trước, giọng thơ bùi ngùi, xúc động, làm hiện lên ký ức “Mười lăm năm dài, lòng mãn nồng”. Tình cảm lưu luyến, buồn bã không chỉ của người ở lại mà còn của người ra đi về miền xuôi, đôi bên “Nắm tay nhau, nói điều gì hôm nay”. Mạch cảm xúc, lối đối đáp “ta-mình”, như buổi chia tay của người yêu, đậm âm hưởng Tây Bắc, gắn bó sâu sắc, bền chặt giữa đôi lứa.

“- Mình đi, có nhớ thời gianMưa suối lũ, những mây cùng mù?Mình về, có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?Mình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi rụng, măng mai giàMình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, lòng son đậmMình về, còn nhớ núi nonNhớ kháng Nhật, còn Việt MinhMình đi, có nhớ mình không?Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

– Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầyTa đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùngNhớ người mẹ nắng cháy lưngÐịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngôNhớ sao lớp học i tờÐồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoanNhớ sao ngày tháng cơ quanGian nan đời vẫn ca vang núi đèo.Nhớ sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm nện cối đều đều suối xa…

Người ở lại đã nhắc nhở người ra đi về những ký ức sâu nặng trong suốt một chặng đường chiến đấu dài lâu của dân tộc. Đó là sự gian khổ trong sinh hoạt khi cách mạng phải đối mặt với chốn rừng sâu nước độc, nhiều thiếu thốn, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”, sự thiếu thốn cái ăn, cái mặc trong những năm đầu với “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Thế nhưng sự vất vả, khó khăn chồng chất ấy cũng không thể nào đánh gục được ý chí của những người làm cách mạng, bởi Việt Bắc đã cho ta những “trám bùi”, “măng mai” dồi dào, những con người Việt Bắc “đậm đà lòng son” và cả núi rừng thủy chung gắn bó, từ thuở còn kháng Nhật, còn là Việt Minh với những sự kiện, những trận chiến gắn liền với các địa danh nổi tiếng như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Đối đáp lại với những lời gợi nhắc kỷ niệm, thấm đẫm tình cảm, sự gắn bó tha thiết, sâu nặng, người ra đi đã một lòng khẳng định tình cảm của mình dành cho Việt Bắc và cả con người Việt Bắc, những người mà sắp tới đây sẽ phải chia xa, ngày gặp lại chưa biết là khi nào. Rằng “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh/Mình đi, mình lại nhớ mình/Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…/Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đó là thứ tình cảm dạt dào “đinh ninh” trong dạ trước sau một lòng, đi rồi hãy vẫn còn mãi nhớ, nghĩa tình sâu nặng tựa như nước chảy trong nguồn, gắn bó, tha thiết, nhớ thương như tình cảm của những người yêu nhau. Đồng thời nhân vật “ta” cũng bộc lộ nỗi nhớ, những kỷ niệm khắc ghi trong lòng về thiên nhiên Việt Bắc với cảnh “trăng lên”, “nắng chiều”, “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, nhớ cả những ngày sóng vai, cùng nhau chia sẻ “ngọt bùi đắng cay”. Mà mai đây khi về miền xuôi, xa rời Việt Bắc, người ra đi vẫn sẽ giữ nguyên những kỷ niệm đáng nhớ, những xúc động khó quên về một vùng đất lắm ân tình, những con người chân chất, thật thà, đùm bọc cách mạng bằng cả tấm lòng son sắt “Thương nhau, chia củ sắn lùi/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ trong ký ức về những cảnh điểm của Việt Bắc, mà còn là ký ức về những ngày tháng cùng hoạt động, cùng sinh hoạt với những con người nơi đây, vượt qua tất cả mọi gian khó, sao có thể quên những “lớp học i tờ”, những người mẹ địu con lên núi bẻ ngô nuôi cách mạng, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày tháng sinh hoạt cơ quan nhiều khó khăn, những tiếng chày, tiếng mõ vang vọng núi rừng,… Tất cả đã khắc sâu vào trí nhớ của người ra đi bằng những tình cảm quý giá và trân trọng nhất.

Hơn thế nữa với cả con người và thiên nhiên Việt Bắc nhân vật trữ tình “ta” tức là người ra đi còn có những cảm nhận, những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp thực hài hòa và gắn bó trong bức tranh tứ bình:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiÐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Mùa đông hiện lên với vẻ đẹp của “rừng xanh” thăm thẳm, gợi ra hiện thực lạnh lẽo, khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, tuy nhiên với sự xuất hiện thật tinh tế rực rỡ của bông “hoa chuối đỏ tươi”, gam màu nóng đã phần nào làm dịu đi cái giá rét, độc hại, mang đến sự lãng mạn, trữ tình nhưng không hoàn toàn tránh né hiện thực chiến đấu gian khổ ở nơi đây. Hình ảnh con người nổi bật khỏe khoắn với cảnh “dao gài thắt lưng”, thể hiện tư thế hiên ngang, xông pha núi rừng, dưới cái ấm áp của ánh nắng mùa đông, nhiệt huyết của con người trong công cuộc trèo đèo lội suối, lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Đông qua, xuân tới với cảnh tượng “mơ nở trắng rừng”, một điểm nhấn đặc biệt của vùng núi Tây Bắc, sắc trắng thanh nhã, dịu dàng càng làm tôn lên cái sự dẻo dai, khéo léo của con người nơi đây với công cuộc lao động tỉ mỉ “chuốt từng sợi giang”. Bức tranh mùa hè được gợi ra không chỉ nằm ở phần nhìn, mà còn mở rộng với cả âm thanh, đó là tiếng ve kêu rộn rã với cảnh “rừng phách đổ vàng”, gợi cho người đọc những cảm giác sôi động, tràn đầy sức sống, mà con người giữa khung cảnh ấy thì vẫn miệt mài lao động, hình ảnh cô em gái giản dị, ngồi hái măng một mình, khiến người ta không khỏi thêm yêu, thêm nhớ và xúc động. Kết thúc bức tranh tứ bình là cảnh tượng mùa thu được gợi ra với “trăng rọi hòa bình”, vốn là một hình ảnh có nhiều ý nghĩa. Xưa nay trăng luôn tượng trưng cho những gì tươi đẹp, dịu dàng, thanh mát, cũng tượng trưng cho sự đoàn tụ, viên mãn, đồng thời nói đến mùa thu người ta vẫn thường nhắc đến rằm tháng tám trăng tròn vành vạnh. Mà trong câu thơ này “trăng rọi hòa bình” cũng chính là ẩn dụ cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi vẻ vang của dân tộc, ánh trăng là tượng trưng cho vẻ đẹp bình yên, tươi sáng. Đồng thời cũng là lúc người chiến sĩ cách mạng chuẩn bị hành trang về thủ đô Hà Nội, nên hình ảnh con người Việt Bắc đã hiện lên thật sâu sắc trong “tiếng hát ân tình thủy chung” sau bao nhiêu năm tháng gắn bó. Có thể nói rằng bức tranh tứ bình về Việt Bắc là một trong những điểm nhấn quan trọng và đặc sắc nhất của toàn bộ tác phẩm, bộc lộ không chỉ vẻ đẹp con người và thiên nhiên nơi đây mà còn là cả một ẩn dụ cho quá trình kháng chiến bắt đầu vào mùa đông và kết thúc thắng lợi vào mùa thu, thể hiện tài năng quan sát tinh tế, sự khéo léo, chất trữ tình chính trị và cả tình cảm gắn bó sâu nặng của Tố Hữu với vùng đất lắm ân tình thủy chung này.

Nỗi nhớ, tình cảm gắn bó, quyến luyến của người ra đi không chỉ nằm trong những ký ức về cảnh sống, cảnh sinh hoạt mà còn bộc lộ thông qua quãng đường chiến đấu và hy sinh của cách mạng. Tuy Tố Hữu không hề đi sâu vào miêu tả rõ ràng các trận đánh lịch sử mà chỉ điểm lại đồng thời bộc lộ những cảm xúc bùi ngùi, tha thiết thế nhưng cũng đã đủ để gợi nhắc về một thời chiến đấu oanh liệt của cách mạng ta giữa núi rừng Tây Bắc.

“Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh TâyNúi giăng thành lũy sắt dàyRừng che bộ đội rừng vây quân thùMênh mông bốn mặt sương mùÐất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai trở về có còn nhớ không?Ta quay về, lòng nhớ Phủ Thông, đèo GiàngNhớ dòng sông Lô, phố RàngNhớ từ Cao-Lạng chạy qua Nhị Hà…Những con đường Việt Bắc của chúng taMỗi đêm vang lên như tiếng đất rungQuân đi, những bước đi êm đềmÁnh sao đỉnh súng, bạn cùng chiếc mũ nanDân công đỏ lửa, từng đànChân nát đá, muôn lửa bùng nổ.Ngàn đêm sâu thăm, sương dày mênh môngÐèn pha sáng tỏ như ánh mai mắt.Tin vui chiến thắng tràn ngậpHòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên hạnh phúc về”|Vui từ Ðồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

Từ những ngày chiến đấu đầy gian khó “khi giặc đến giặc lùng”, nhờ sự đoàn kết mạnh mẽ của quân dân, tinh thần chiến đấu kiên cường, rừng núi trước đây làm khó khăn cho cách mạng, ngày nay trở thành đồng minh của chúng ta, trở thành “lũy sắt dày”, bảo vệ bộ đội khỏi quân thù, hỗ trợ cho chiến sĩ trong những thời kỳ đầy thách thức. Sau những ngày bắt đầu với sự bất đồng, với vẻ ngoại hình non trẻ, lực lượng chúng ta ngày càng mạnh mẽ, hùng mạnh, anh dũng trong cuộc chiến trên vùng rừng Việt Bắc, từng bước tiến gần đến chiến thắng cuối cùng.

“Ai về ai có nhớ không?Ngọn cờ đỏ rực gió bay qua lồng cửa hang.Bức nắng trưa rợp sáng nhưng sao vàngTrung ương, Chính phủ họp bàn về công việcLập kế hoạch cho chiến dịch mùa đôngPh mobil hóa nông thôn, mở đường giao thôngGiữ đê, phòng hạn, thu lươngGửi dao miền ngược, mở rộng trường các khu…

Ở nơi mà bóng tối của quân thù bao trùmNhìn lên Việt Bắc: Ánh sáng Cụ Hồ chiếu rọiNơi đau thương giống như là nòiNhìn về Việt Bắc, nuôi chí bền.Mười lăm năm trôi qua không ai quênQuê hương cách mạng là nguồn ngọc quý của Cộng hòaTrở về, nhớ mãi những gì là của taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

Phần kết cuộc đoạn trích, tuy không phải là sự kết thúc của tác phẩm, nhưng lại đánh dấu cho chiến thắng lịch sử của kháng chiến chống Pháp từ 1940 đến 1954. Mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước, mặc dù vẫn chia cắt hai miền, nhưng là động lực quan trọng cho công cuộc thống nhất, miền Bắc bắt đầu xây dựng nền kinh tế xã hội, hướng tới chủ nghĩa xã hội. Khẳng định lòng tin vào Đảng và Bác Hồ, vào sự đúng đắn của cách mạng, cũng như kỳ vọng vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc.

Việt Bắc, một kiệt tác xuất sắc, đỉnh cao của sáng tác của Tố Hữu và là điểm sáng trong văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ sử dụng kết cấu đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, lối xưng hô thân thiết ‘ta-mình’, lời thơ tình cảm, ân tình sâu sắc, vận dụng tinh tế thể thơ lục bát truyền thống. Bức tranh của sự lưu luyến, phút chia ly, tình cảm quân dân chặt chẽ trong chiến đấu chống thực dân Pháp, nổi bật qua những thăng trầm khó khăn. Thi phẩm còn đánh dấu một giai đoạn lịch sử gian khổ, vẻ vang, hào hùng của dân tộc, thể hiện lòng tự hào, niềm tin và hy vọng vào tương lai rạng ngời của đất nước.

3. Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu từ học sinh giỏi, mẫu số 3:

Tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng vang dội trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc để trở về Hà Nội lãnh đạo phong trào cách mạng tiếp theo. Trước sự kiện đó, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc. Đây là một tác phẩm cách mạng, gọi nhớ những ký ức đẹp và đắng của Việt Bắc từ những ngày đầu khó khăn xây dựng cơ sở cách mạng cho đến chiến thắng cuối cùng. Bài thơ sử dụng lối hát giao duyên nam nữ nhưng thể hiện những tình cảm cách mạng, làm cho nó trở nên gần gũi, thấm đẫm với mọi người, truyền đạt những cung bậc cảm xúc phong phú.

Kết đầu bài thơ là những dòng từ ca dao, hòa mình vào không khí tiễn biệt trầm mặc và quyến luyến:

Mình về mình có nhớ đâuMười lăm năm ấy, đắm chìm trong hương thơMình về mình có nhớ không?Nhìn cây nhớ núi, ngắm sông nhớ nguồn.

Trước cuộc chia ly, tâm hồn bồi hương nỗi buồn, từ ‘mình’ và ‘ta’ ở hai đầu câu tạo nên khoảng cách, tình biệt. Câu thơ đặt câu hỏi tưởng nhớ về lòng trung thành giữa biến cố và thách thức mới. Niềm nhớ thương tràn ngập, người ở lại không thể kiềm nén, hỏi: Mình có nhớ đâu, mình có nhớ không? … Làm cho người đi càng thêm lưu luyến, hồi hương như một nỗi tiếc thương vô hạn. Không chỉ đặt câu hỏi, người Việt Bắc còn tái hiện quãng thời gian mười lăm năm gắn bó chặt. Ngay từ đầu, ta gặp những từ ngữ quen thuộc từ ca dao tình yêu như: Mình về có nhớ chăng, Ta về ta nhớ từng khoảnh khắc cười … nhưng cặp lục bát tiếp theo không còn là tình yêu mà là tình thương gắn bó với mảnh đất quê hương Việt Bắc. Nhớ núi, nhớ rừng, thực chất là nhớ nguồn cội của cách mạng.

Hướng dẫn Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Bốn dòng thơ mở đầu tạo nên hai câu hỏi tinh tế, mỗi câu hỏi chạm đến khía cạnh khác nhau: về thời gian và không gian, gói ghém một thời kỳ cách mạng, một vùng đất đầy biến động.

Trước cảm xúc, lòng bộc lộ của người ở lại, kẻ ra đi im lặng lắng nghe:

Nghe tiếng ai rì rào bên cồnMiên man trong lòng bồn chồn bước ra đi

Người rời bỏ lặng lẽ để tri âm, để tiếng ai bên cạnh dần dần vang lên, chìm sâu vào trí tưởng, làm cho tâm hồn trở nên trọn vẹn, đầy đủ. Lặng lẽ nhưng không kém phần mãnh liệt. Người ở lại diễn đạt lòng trung thành, người đi lắng nghe thiết tha, sự tương đồng ngôn từ này tạo nên sự đồng điệu trong tâm hồn người. Nhịp thơ lục bát vững chãi, êm dịu như chính bối rối ấy trong trái tim con người đã làm thay đổi:

Áo chàm buổi tạm biệtNắm tay nhau, lời chia tay lẻ loi.

Khi chia tay sau những kỷ niệm dài, có biết bao thăng trầm, lòng trăn trở, cảm xúc không nói thành lời. Bước chân bồn chồn, tâm trạng bâng khuâng. Dù không từ biệt trực tiếp, hình ảnh áo chàm và việc nắm tay thể hiện tất cả, chứa đựng biểu cảm sâu sắc của cả người đi và người ở.

Bao phủ tâm hồn người ở và người đi là ký ức da diết với nhiều cảm xúc khác nhau. Người ở băn khoăn về lòng trung thành của người đi, trong khi người đi khẳng định tình yêu mãi mãi trong ký ức. Việt Bắc hiện lên trong hoài niệm sinh động và chi tiết.

Nhớ Việt Bắc là nhớ những ngày gian khổ và hy sinh: Mưa lũ, mây mù, khó khăn, nhưng tất cả đồng lòng, gánh chịu mối thù nặng nề với quân xâm lược. Là nhớ đến nghĩa tình sâu nặng của đồng bào. Người rời đi làm núi rừng trở nên trống vắng, điều này lặp đi lặp lại trong những điềp từ, từ đi về, làm cho không gian và thời gian Việt Bắc hiện lên rõ ràng từ trong khói sương của ký ức, tâm trạng chứa đựng nhớ nhung rõ nét.

Trả lời băn khoăn của người ở lại, người ra đi khẳng định lòng đinh ninh, tình nghĩa vẫn mãnh liệt, gắn bó bền chặt qua thời gian dài:

Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đầy đặn đinh ninh.

Nói rõ hơn, người ra đi khẳng định: Mình rời đi nhưng lòng nhớ mãi, tình nghĩa không bao giờ khô cạn:

Nguồn nghĩa tình chưa bao giờ cạn kiệt.

Mối liên kết sâu sắc với Việt Bắc tạo nên hình ảnh quyến luyến huyền bí, làm cho ký ức về Việt Bắc trở nên rực rỡ và ảo diệu trong nỗi nhớ của người về xuôi. Nỗi nhớ đầy nồng thắm, quyến luyến như tình yêu lứa đôi. Việc so sánh nỗi nhớ trong tình yêu với nỗi nhớ về cuộc kháng chiến, nghĩa tình cách mạng, là một sáng tạo độc đáo của thơ Tố Hữu.

Chính từ sự liên kết và kỷ niệm da diết ấy, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên như một bức tranh tuyệt vời với bốn mùa, với đặc trưng riêng biệt của nơi đây:

Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những bông hoa và cây cỏRừng xanh, hoa chuối đỏ rựcĐèo cao, nắng ánh lấp lánh như lưng chừngNgày xuân, đám hoa trắng nở khắp rừngNhớ người làm nón từng sợi mâyVe kêu, rừng hòa mình trong ánh vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu, trăng sáng tỏ bình yênNhớ những giai điệu ân tình, lòng trung thuỷ.

Trong dòng ký ức và hoài niệm, bức tranh tươi đẹp về Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi sáng về những kỷ niệm.

Trong bức tranh phong phú của thiên nhiên rạng ngời, hình ảnh người lao động chuốt sợi giang, hái măng giữa rừng vàng làm nổi bật sự hăng hái của con người. Nhưng điều ấn tượng nhất có lẽ là tiếng hát ân tình thuỷ chung, vượt qua núi rừng, biển cả thời gian, làm nổi bật tình cảm thâm thiết trong đoạn thơ.

Nhớ về Việt Bắc không chỉ là nhớ về cảnh đẹp và con người, mà còn là nhớ về cuộc kháng chiến hùng tráng.

Khi giặc xâm lược đếnRừng cây núi đá ta cùng chiến đấuNúi trở thành luỹ sắt vững chắcRừng che bóng bộ đội rừng chờ đón kẻ thùMênh mông bốn phía sương mùĐất trời ta đồng lòng chiến đấuQuân xâm lược dày kín như kiếnÁnh sao trên đầu súng, mũ nan sáng chóiDân quân đỏ đuốc hàng đêmBước chân bằng đá, lửa cháy muôn phươngĐèn pha sáng tỏ như ánh mai rực

Với tiết tấu ngân nga, lời ru của sự hành quân vẻ vang, tác giả đã tạo nên một cấu trúc đối xứng khác, tăng cường diễn đạt mạnh mẽ, hùng dũng như nhịp bước quân đội. Sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, mô tả kỳ vĩ, ý thơ bay xa vào tương lai, tất cả tạo nên một bức tranh sử thi lớn, khen ngợi sức mạnh yêu nước và lòng anh hùng của nhân dân.

Bài thơ kết thúc bằng khẳng định vững chắc rằng Việt Bắc là mảnh đất nơi nảy sinh phong trào cách mạng, là quê hương của niềm tin và hi vọng của người Việt Nam trên khắp đất nước, đặc biệt là những vùng đang chịu sự áp đặt của thù địch.

Việt Bắc, tác phẩm đỉnh cao của Tố Hữu về tình cảm cách mạng, không chỉ là lời chia tay đầy xúc cảm mà còn là sự khẳng định vững chắc lòng trung hiếu của những chiến sĩ cách mạng. Là bản tình ca không ngừng của lòng trung hiếu, đượm hương tình yêu, sôi nổi và trong trắng.

4. Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu hay ngắn, mẫu số 4:

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và là một công trình nghệ thuật xuất sắc về khía cạnh chiến đấu chống Pháp. Xuất phát từ sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954, bài thơ tái hiện hình ảnh những chiến sĩ quay trở lại miền Nam, là nguồn động viên cho tinh thần đoàn kết và chiến đấu tiếp theo.

Xuất phát từ điểm đó, bài thơ quay về quá khứ, hồi tưởng về thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ. Anh hùng và nghĩa tình gắn bó với Việt Bắc, Đảng và Bác Hồ, đất nước và nhân dân trở thành nguồn sức mạnh tinh thần to lớn, là động viên cho bước tiến vững chắc trên con đường cách mạng. Với hình thức đậm chất dân tộc, bài thơ truyền đạt nội dung này một cách xuất sắc, đặc trưng cho phong cách thơ Tố Hữu.

Hoàn cảnh sáng tác tạo nên tâm trạng đặc biệt, xúc động: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… Đó là cảnh chia tay của những người đã chia sẻ mọi cay đắng ngọt bùi, sống gắn bó suốt mười lăm năm. Hồi ức đẹp đẽ làm hiện hữu nghĩa tình thuỷ chung và hướng tới tương lai tươi sáng. Tình cảm cách mạng được thể hiện tinh tế, như một bản tình ca tràn ngập tình yêu, sôi nổi và trong trắng.

Biểu hiện tâm trạng qua lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bài thơ mở ra những ký ức về thời cách mạng và kháng chiến. Đối đáp là cửa sổ mở ra những kỉ niệm, những nỗi niềm thương nhớ. Bên trong đó là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của nhà thơ và những người chiến đấu.

Qua hồi tưởng trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi đã đi sâu vào thiên nhiên núi rừng Việt Bắc, với vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng, thể hiện những đặc trưng riêng biệt, khác biệt so với những miền khác của đất nước. Những cảm nhận sâu sắc về ánh nắng chiều, ánh trăng đêm, những bản làng trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng sông suối – tất cả là khoảnh khắc kỷ niệm đong đầy thời gian và không gian:

Nhớ như người yêu mình…Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê tràn đầy.

Đẹp nhất trong kí ức về Việt Bắc là sự hòa quyện tình cảnh với con người, ấn tượng về người dân Việt Bắc chăm chỉ lao động, trung thành nghĩa tình:

Ta trở về, nhớ đến chính mình…Nhớ người, tiếng hát ân tình thuỷ chung

Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp đa dạng, phong phú, sống động, biến đổi theo từng thời điểm, từng mùa.

Gắn bó với mỗi khung cảnh ấy là hình ảnh những con người giản dị, người làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng,… Bằng những công việc tưởng chừng nhỏ bé, họ đã đóng góp vào sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Tình đồng lòng của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và chia sẻ, gánh vác mọi khó khăn và niềm vui, cùng nhau chia sẻ mọi gian nan và hạnh phúc,… tất cả làm cho hình ảnh Việt Bắc trở nên rực rỡ trong tâm hồn nhà thơ. Việt Bắc – là hình ảnh của những mái nhà ‘hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son’, là hình ảnh người mẹ ‘nắng cháy lưng – Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô’, là những ngày đồng lòng gian nan :

Yêu thương, chia sẻ củ sắn với nhauChén cơm sẻ nửa, chăn sui đắp chung,…

Có thể nói, bản âm hưởng trữ tình vẫn vang vọng trong toàn bộ bài thơ, tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm về tình đồng chí, lòng đồng bào, tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, yêu cuộc sống.

Phân tích bài thơ Việt Bắc có dàn ý

Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động sôi nổi, hình ảnh hùng vĩ, âm thanh sôi động, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua đi vẻ u ám, hiu quạnh của núi rừng, đồng thời thức tỉnh sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ đong đầy hơi thở anh hùng, là sự biểu tượng của sử thi hiện đại, vì chỉ cần nét vẽ của Việt Bắc, Tố Hữu đã khắc họa sức mạnh phi thường của dân tộc đang chiến đấu vì độc lập và tự do quê hương:

Những con đường Việt Bắc của chúng ta…Ánh đèn pha chiếu rực sáng như bình minh hôm sau.

Dân tộc đã vượt qua những gian khó, khó khăn, hi sinh để tạo nên những chiến công kỳ diệu, những dấu tích liên quan đến những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên,… Tố Hữu không chỉ mô tả sức mạnh hùng vĩ của cuộc kháng chiến, mà còn phân tích sâu rõ nguồn gốc sức mạnh dẫn đến chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng trên vai, sức mạnh của tình nghĩa thủy chung: Mình ở đây, ta ở đó, đắng ngắt ngọt ngào, sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người và thiên nhiên – tất cả tạo nên hình ảnh đất nước đang đứng lên:

Nhớ những lúc giặc đến, giặc lùng…Đất trời Việt Nam đồng lòng chiến đấu khu vực một lòng.

Đặc biệt, với những dòng thơ trang trọng và tình cảm, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là điểm định vững chắc, là trí óc của cuộc kháng chiến, nơi tập trung mọi tình cảm, tư tưởng, niềm tin và hy vọng của người Việt Nam yêu nước. Trong những thời kỳ tối tăm trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc từ từ hiện lên (mưa nguồn suối lũ, những đám mây cùng mù sương) trở thành một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng sức mạnh đấu tranh, nơi sinh ra những địa danh sẽ mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc:

Mình trở về, vẫn nhớ núi non…Tân Trào, Hồng Thái, mái nhà, cây đa.

Trong những ngày kháng chiến gay go, Việt Bắc là nơi có Bác Hồ rạng ngời, có Trung ương, Chính phủ thảo luận công việc. Để củng cố lòng tin và tình cảm yêu thương của cả nước đối với Việt Bắc, Tố Hữu sử dụng những vần thơ giản dị, chân thật mà đầy ẩn ý tình cảm:

Ở đâu nỗi đau giống nhau…Quê hương Cách mạng tạo dựng nên Cộng hòa.

Nghệ thuật diễn đạt của bài thơ phản ánh sự đậm nét văn hóa dân tộc. Đáng chú ý là Tố Hữu đã khéo léo khai thác những đặc điểm tích cực của thể lục bát truyền thống. Cấu trúc tứ của bài thơ lồng ghép cấu trúc tứ ca dao, với hai nhân vật chính là ta và mình, người ra đi và người ở lại thể hiện tình cảm qua bài hát đối đáp. Trong cuộc trò chuyện lịch sử này, người ở lại bắt đầu kể về thời xa xưa, thời khắc khổ trước Cách mạng, và người ra đi tiếp tục nhớ lại những kỷ niệm của thời kỳ kháng chiến.

Nhà thơ rất tận dụng khéo léo kiểu tiểu đối từ ca dao, không chỉ làm nổi bật ý tưởng mà còn tạo ra nhịp điệu đồng đều, cân đối, hài hòa, giúp lời thơ trở nên dễ nhớ, dễ ghi nhớ, và lan tỏa sâu vào tâm trí:

Ta về núi rừng, kỷ niệm đóTrám bùi chờ rụng măng, mai chờ già;…Bắt đầu chiến dịch thu đôngXô bồ nông thôn, mở đường giao thông,…

Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu tập trung vào việc sử dụng ngôn từ và diễn đạt của nhân dân, một ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, nhưng rất sống động, để tái hiện thời kỳ cách mạng và kháng chiến đầy khó khăn, nhưng cũng tràn đầy tình nghĩa. Đây là loại ngôn ngữ giàu hình ảnh cụ thể:

Nghìn đêm trong sương mỏng thăm thẳm;Nắng trưa rực rỡ, sao trời lấp lánh;…

Và cũng là loại ngôn ngữ đầy nhạc điệu:

Chày đêm nện cối, tiếng suối xa xa;Đêm đêm vang lên như đất rung chuyển;…

Đặc biệt, thơ của Tố Hữu linh hoạt sử dụng phép trùng điệp, làm cho ngôn ngữ trở nên hùng vĩ:

Mình quay về, lòng nhớ ta;Mình về, nhớ chiến khu tháng ngày;Nhớ những buổi học mộng mị;Nhớ tiếng mõ rừng, nhớ bóng chiều dài,…

Tất cả hòa quyện thành giai điệu trữ tình, êm đềm, ngọt ngào như khúc hát ru, hòa mình vào thế giới của ký ức và tình nghĩa chân thật.

Bài thơ là bản tình ca ân nghĩa, là sự hồi tưởng đầy xúc động và lòng biết ơn của Tố Hữu về những năm tháng gian khổ của quê hương (từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954), từ đó hướng về một tương lai tươi sáng, ghi chú tâm nguyện trung thành. Viết về lòng yêu nước và sự nhớ nhà, Tố Hữu đã thể hiện khéo léo nghệ thuật mang tính dân tộc, với sự kết hợp tuyệt vời giữa thể thơ lục bát và ngôn ngữ dân gian đặc sắc. Việt Bắc, trong bài thơ này, trở thành bản hòa nhạc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc chiến đấu và những con người dũng cảm, với nguồn gốc chính là tình yêu quê hương, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, và truyền thống đoàn kết, trung hiếu của dân tộc Việt Nam.

5. Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ngắn và xuất sắc nhất, mẫu số 5:

‘Việt Bắc’ là bức tranh thơ tuyệt vời của Tố Hữu, một trong những công trình xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Nảy sinh trong bối cảnh lịch sử trọng đại, sau chiến thắng Điện Biên Phủ đầy ấn tượng, kỳ tích giải phóng miền Bắc, Hà Nội hoành tráng trong lễ quốc khánh 10 – 1954, bài thơ ‘Việt Bắc’ là giọng hát chung của lòng trung kiên, lòng mến yêu từ chiến sĩ, cán bộ, nhân dân đối với vùng đất anh hùng Việt Bắc, với cuộc cách mạng và kháng chiến, với Đảng và Bác Hồ từ cả hai miền; là khúc hát ca ngợi anh hùng của dân tộc đã chiến thắng sau hơn ba ngàn ngày đêm uống máu thấm đẫm.

Bài thơ ‘Việt Bắc’ mang đặc điểm của một bản ca, có 150 câu lục bát, vừa mang đậm âm điệu ca dao, dân ca, vừa toát lên vẻ đẹp của thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc.

Bắt đầu với khung cảnh chia tay giữa người ở lại và người ra đi, bài thơ khơi gợi nỗi nhớ thương, sự lưu luyến và tình cảm chân thành:

Mình trở về, lòng nhớ ngườiMười lăm năm trôi, nồng thắm mặn ngọtMình quay về, lòng có nhớNhìn cây nhớ núi, ngắm sông nhớ nguồn?

Hình ảnh ‘áo chàm’ hiện hữu trong buổi tiễn biệt làm nổi bật màu sắc Việt Bắc, màu của núi rừng chiến khu, màu tình cảm thương nhớ của tình quân dân ‘đậm đà lòng son’ qua mười lăm năm chiến đấu cách mạng và kháng chiến:

Áo chàm đưa tiễn phút chia lyBàn tay nắm chặt, lời chia tay đâu…

Bao kỷ niệm sâu đậm chìm trong trái tim, hành trình đầy gian lao và dũng cảm, từ khởi nghĩa Bắc Sơn 1940 đến Điện Biên chiến thắng, đến ngày miền Bắc giải phóng hoàn toàn năm 1954. Câu hỏi của người ở lại, những giai điệu hòa mình vào tiếng hát, gợi lên nỗi nhớ sâu sắc về quãng thời gian ‘Mình về có nhớ… Mình đi có nhớ…’. Mình đi có nhớ những ngày ‘nhóm lửa’ đau thương: ‘Mưa nguồn suối lũ, mây cùng mù’. ‘Mình về có nhớ chiến khu’ thời đánh Pháp, đuổi Nhật ‘Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai’. Trong thiếu thốn gian khó, lòng với quê hương đau đáu, gánh nặng trên vai càng ngày càng trở nên nặng nề: ‘Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp tàn bạo – Băm xương thịt mày tan mới hả’ (‘Dọn về làng’ – Nông Quốc Chấn). Mình đi…, mình về… có nhớ, nhớ trám bùi, nhớ măng mai, nhớ lau xám, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ ‘Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?’. Nhớ Việt Bắc là ‘Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh’, nhớ đồng bào của dân tộc tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa thủy chung son sắt với cách mạng. Những ẩn dụ, tượng trưng trong thơ Tố Hữu thật rung động, mở ra một không gian thương nhớ mênh mông với bao tình nghĩa đong đầy:

Mình đi, lòng nhớ những mái nhàLau xám hắt hiu, lòng son đậm đà.

Rời xa Việt Bắc, trên đường về Thủ đô, người cán bộ kháng chiến mang theo bao kỷ niệm, chất chứa trong tâm hồn những hình ảnh đẹp và sâu sắc:

Mình đi, lại nhớ về bản thânNguồn nước nơi đây, nghĩa tình như thế….

Người rời đi, người trở về, đều gìn giữ những kí ức: nhớ chính mình, nhớ ánh trăng trên đỉnh núi, nhớ nắng chiều trên lưng nương, nhớ bản khói hòa mình với sương, nhớ bếp lửa, nhớ rừng bên bờ tre, nhớ ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê,…

Văn bản phân tích về ‘Việt Bắc’, mẫu số 5

Một củ sắn nhỏ, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui… Trong những ngày ‘chua xót ngọt bùi’ ấy, kỷ niệm không bao giờ phai nhạt khi người trở về. Sự chung lòng chia sẻ đã làm cho tình thương và nỗi nhớ trở nên đắm chìm và cảm động:

‘Thương nhau, chia củ sắn lùi,Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng’.

Những từ ngữ như thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa lung linh trên dòng thơ, làm cho tình đồng bào, tình đồng chí, tình quân dân, và tình cá nước trở nên ấm áp hơn.

Nhớ chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta nhớ mình, nhớ người mẹ vất vả, tần tảo ‘nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô’. Điệp ngữ ‘nhớ sao’ diễn tả bao da diết bồn chồn: nhớ sao lớp học i tờ, nhớ sao đuốc sáng những giờ liên hoan; nhớ tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối… của khúc nhạc rừng chiến khu. ‘Những hoa cùng người’ của Việt Bắc trong bốn mùa đã trở thành mảnh tâm hồn của ta cùng với bao nỗi nhớ:

Ta về mình có nhớ ta,Ta về ta nhớ những hoa cùng người,Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.Ve kêu rừng phách đổ vàng,Nhớ cô em gái hái măng một mình.Rừng thu trăng rọi hòa bình,Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Đoạn thơ như một bài hành mang vẻ đẹp cổ điển. Thiên nhiên và con người Việt Bắc được điểm nhãn trong bức tranh tứ bình đẹp như gấm như thêu. Màu đỏ tươi của hoa chuối giữa rừng xanh mùa đông và con dao quắm của người đi nương, đi rẫy ‘nắng ánh’ trên đèo cao. Hoa mơ mùa xuân ‘nở trắng rừng’ và người thợ thủ công khéo léo đan nón ‘chuốt từng sợi giang’. Rừng phách mùa hè ‘đổ vàng’ trong tiếng ve và hình ảnh cô gái Việt Bắc ‘một mình’ đi hái măng giữa rừng tre rừng trúc. Tiếng hát ân tình thủy chung của ai cất lên trong rừng thu dưới ánh trăng xanh hòa bình mát dịu. Tất cả đều trở thành nỗi nhớ của ta, của người cán bộ kháng chiến.

Tố Hữu đã sống hết mình với Việt Bắc nên ông mới viết thật hay về nỗi nhớ ấy. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp rực rỡ, đẹp dịu dàng và đầy sức sống. Cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng đẹp, một vẻ đẹp thơ mộng xinh tươi. Con người Việt Bắc được nói đến là con người lao động: người đi làm nương rẫy, người thợ thủ công, cô em gái hái măng, và ai đang cất cao tiếng hát – tất cả đều tượng trưng cho những đức tính tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Việt Bắc như cần cù, khéo léo, lạc quan yêu đời. Đọc bài thơ ‘Việt Bắc’, ta không bao giờ quên được cảnh sắc thiên nhiên bốn mùa và những con người lao động đáng yêu ấy.

Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu bất khả xâm phạm: ‘Núi giăng thành lũy sắt dày’. Nhớ Việt Bắc là nhớ thế trận chiến tranh nhân dân thần kì: ‘Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây’. Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu với tất cả niềm tự hào về khối đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh Việt Nam để chiến đấu và chiến thắng:

Mênh mông bốn mặt sương mù,Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa ngợi ca chiến khu Việt Bắc mang tầm vóc dũng sĩ hiên ngang – cái nôi của cách mạng ‘dựng nên Cộng hòa’. ‘Ai về ai có nhớ không?’ – Ta nhớ nhiều và nhớ lắm. Nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những địa danh lịch sử mà bộ đội ta từng vào sinh ra tử, làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn: ‘nhớ Phủ Thông, đèo Giàng – Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng – Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà’. Cả một trời thương nhớ không bao giờ có thể quên. Ta về ta nhớ những con đèo, những dòng sông, những ngọn núi…, nay ‘đã hóa tâm hồn’ ta từ những tháng ngày gian khổ và oanh liệt.

Nhớ Việt Bắc là nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những đêm ‘rầm rập’ hành quân ra trận. Là nhớ những binh đoàn ‘Quân đi điệp điệp trùng trùng’ trong ánh sao đêm. Là nhớ những đoàn dân công vận tải ‘Bước chân nát đá’ theo ngọn đuốc đỏ rực, cùng ánh ‘đèn pha bật sáng’ của đoàn xe kéo pháo ra trận. Giọng thơ mang âm điệu anh hùng ca cất lên như những tiếng reo biểu lộ niềm vui trước khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong ba nghìn ngày khói lửa:

Những đường Việt Bắc của chúng ta,Đêm đêm rộn ràng như là đất rung.Binh sĩ đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn và mũ nanNgười công nhân đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá muôn tàn lửa bayNghìn đêm thăm thẳm sương dàyĐèn pha bật sáng như bình minh mới lên.

‘Ai về có nhớ không’ – Chúng ta về…, chúng ta nhớ nhiều và nhớ lắm! Nhớ Việt Bắc là nhớ ‘thủ đô gió ngàn’ của cuộc kháng chiến, là nhớ ‘Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang’, là nhớ ‘Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào’, là nhớ ‘Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa’…

Chiến khu Việt Bắc là nơi chứa đựng bao niềm tin của đồng bào và chiến sĩ trên khắp mọi miền đất nước gần xa trong những năm dài chiến đấu gian khổ: ‘Trông về Việt Bắc: Cụ Hồ sáng tỏ… Nhìn lên Việt Bắc mà nuôi chí bền’.

Việt Bắc là nơi tập trung mọi chiến công, chiến thắng của quân và dân ta từ khắp các chiến trường báo về; niềm vui chiến thắng tràn ngập:

Tin buồn chiến thắng trăm vùngHòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên ấm êm,Ấm lòng Đồng Tháp, An Khê,Ấm dậy Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Trả lời tâm tình, ta thể hiện trong phần thứ hai của bài thơ ‘Việt Bắc’ trở nên thêm tình cảm; người ở, người về, miền xuôi và miền ngược càng liên kết bằng ân tình sâu sắc. Món quà Việt Bắc gửi về miền xuôi là những đặc sản, là ‘cây nhà lá vườn’, là hương vị của núi rừng:

Mình về, mình mang theo quê hương,Thuyền nâu, trâu mộng, bè nứa mai.

Món quà ấy làm cho tình nghĩa ta – mình, tình non nước thêm trắng trải, cuộc sống thêm phong cách: ‘Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng phai… Phên nhà ấm áp, mái đình hạnh phúc’.

‘Việt Bắc’ là bản tình ca cảm xúc. Bao câu hỏi hòa mình như những lời nhắc nhở, nhấn chìm tình cảm đẹp đẽ của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của ta với mình:

Nhà cao kia có nhìn thấy núi đồi không?Ánh đèn sáng vẫn chớm mảnh trăng giữa rừng?Khi nào Việt Bắc rực rỡ hơn nữa?

Hai từ ‘ngày mai’ lặp lại, mở ra một thế giới ước mơ bao la. Đó cũng chính là niềm tin thắm thiết của những trái tim đầy ân tình, ân nghĩa thủy chung:

Ngày mai quay về thôn xưa,Rừng xanh núi biếc ôm thương nhớ trở lại.Ngày mai sơn khê rộn ràng,Thuyền chạy, bốn bề lưới bám đầy…

Việt Bắc sẽ trải qua sự đổi mới, điều này đồng nghĩa với sự thay đổi của cả nước. Những công xưởng mới sẽ nảy mọc, những con phố sẽ hiện đại hóa. Có những trường học mới, mái ngói đỏ tươi dành cho tuổi thơ. ‘Chợ vui trăm nẻo về khơi nguồn hàng’ sẽ là điểm đến sầm uất. Mối liên kết chặt chẽ giữa miền xuôi và miền ngược sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, gắn bó không thể tả. Những sản phẩm như Muối Thái Bình, cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh, chum vại Hương Canh… từ miền xuôi gửi lên miền ngược sẽ làm phong phú thêm cuộc sống, làm cho nơi đây trở nên ấm cúng và tươi mới. Món quà miền xuôi gửi lên miền ngược như một tình nghĩa:

Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông.

Những món quà tình nghĩa đã làm cho lời thề giữa ta và mình trở nên trường tồn, làm cho bản tình ca non nước hòa mình trong vẻ đẹp vĩnh cửu:

Nước chảy lòng suối chẳng mòn,Mây trôi mây vẫn ghi hồi về non.Đá mòn nhưng lòng không mòn…

Một trong những hình ảnh ấn tượng nhất mà Tố Hữu ghi lại trong bài thơ là vị lãnh tụ được lòng dân. Bác Hồ, người đã dấn thân bí mật tại Cao Bằng, xuất hiện tại Tân Trào trong Đại hội Quốc dân, và cùng đoàn quân về xuôi sau chiến thắng. Núi rừng Việt Bắc vẫn ‘không nguôi nhớ Người’, nhìn theo ‘bóng Người’ mơ mộng. Bức chân dung lãnh tụ không chỉ linh thiêng mà còn gần gũi, bình dị:

Mình về bên Bác trên đường xuôiViệt Bắc không ngừng nhớ đến Người.Nhớ Ông Cụ với áo nâu tinh tươmMắt long lanh, túi vải đẹp kỳ lạ!Nhớ Người, sương sớm tinh khôiYên bình ngựa trắng bước trên dòng suốiNhớ bước chân lãnh đạo caoNgười đi, rừng núi trông theo bóng Người.

Bức tranh tự nhiên huyền bí, với núi cao, đèo thác, suối reo… làm nền cho hình ảnh linh thiêng về Bác Hồ. Mọi chi tiết, từ áo nâu tinh tươm, túi vải đẹp lạ cho đến phong cách ung dung khi ngồi trên ngựa, bước đi trên đèo cao… Thời gian trôi như sương sớm. Thần thái của Người tỏa sáng thông minh, giản dị, ung dung và thanh cao. Bức tranh nhân hóa một vị lãnh tụ, khiến lòng nhân dân tràn ngập tình thương và tôn kính. Đây là một trong những đoạn thơ đẹp và ý nghĩa nhất của Tố Hữu về Bác Hồ.

Bài thơ ‘Việt Bắc’ khép lại với tình cảm sâu sắc dành cho Bác Hồ. Đó là mối tình vĩnh cửu, bền vững:

Ngàn năm về sau, non nước hồi sinhĐời đời tri ân Bác, tình thâm bền lâu.

‘Việt Bắc’ là bức tranh hội họa thơ dân gian và cổ điển, kết hợp lối ca dao dân ca sáng tạo. Tình lưu luyến và hồi hộp giữa người ở và người về, liên kết với mọi kí ức đắng ngắn, ngọt bùi trong suốt mười lăm năm, từ ‘kháng Nhật thưở còn Việt Minh’ đến ngày chiến thắng huy hoàng: ‘Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về’. Hình ảnh quân dân kháng chiến, vị lãnh tụ kính yêu, cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ hòa quyện tạo nên một tác phẩm đẹp mắt, là biểu tượng của tinh thần dân tộc và hiện đại.

‘Việt Bắc’ là bản tình ca ca ngợi cách mạng, chiến tranh và tinh thần kháng chiến. Nó thắp lên niềm tự hào dân tộc và tình yêu nước. Tình ân nghĩa thủy chung là bài học quý giá mà chúng ta luôn mang theo, mãi mãi là niềm tự hào của mỗi người.

‘Thơ hay phải mang đậm vị văn chương,’ như có người đã nói. Trải qua những năm tháng sống trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, có lúc phải ‘ăn bo bo,’ nhưng khi đọc ‘Việt Bắc,’ nhiều người không thể không cảm nhận được hương vị đặc biệt của nó.

0 ( 0 bình chọn )

Nguyễn Tất Thành

https://truongnguyentatthanh.edu.vn
Nguyễn Tất Thành - Nơi chia sẻ kiến thức chuyên sâu trong các lĩnh vực từ giáo dục, văn hóa đến kỹ năng phát triển bản thân. Với các bài viết chất lượng, Nguyễn Tất Thành cung cấp nền tảng vững chắc cho người đọc muốn nâng cao hiểu biết và kỹ năng. Khám phá thông tin hữu ích và học hỏi từ những chuyên gia đầu ngành để hoàn thiện bản thân mỗi ngày.

Ý kiến bạn đọc (0)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

Bài viết mới

GEAR INC.

54 phút trước 0

Xem thêm