- Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đất nước
- Sơ đồ tư duy về bài thơ Đất nước
- Phân tích Đất nước lớp 12 – Mẫu 1
- Phân tích về Đất Nước, mẫu số 2
- Phân tích Đất nước của học sinh giỏi – Mẫu 3
- Phân tích về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Đánh giá về Đất nước – Mẫu 5
- Phân tích Đất nước – Mẫu 6
- Phân tích bài Đất nước – Mẫu 7
- Đất nước phân tích – Mẫu 8
Phân tích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm tập hợp 29 mẫu văn mẫu CỰC CHẤT. Qua phân tích bài thơ Đất nước, học sinh có thể chọn cho mình cách tiếp cận, một phong cách văn phong phù hợp để hiểu sâu hơn về tác phẩm.
TOP 29 mẫu phân tích bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được viết rất xuất sắc, với văn phong rõ ràng, dễ hiểu, giúp học sinh mở rộng kiến thức, nâng cao kỹ năng văn vở, từ đó làm tốt hơn trong môn Ngữ văn. Hãy xem thêm các bài văn mẫu khác như: phân tích 9 câu đầu của bài thơ Đất nước, mở bài văn Đất nước, phân tích vẻ đẹp của sông Hương, phân tích câu chuyện Ai đã đặt tên cho dòng sông, mở bài văn Ai đã đặt tên cho dòng sông.
Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đất nước
I. Bắt đầu:
– Giới thiệu ngắn gọn về văn học trong thời kỳ 1945-1975 và giới thiệu về tác phẩm.
II. Nội dung chính:
a. Khởi đầu của Đất Nước:
– Đất Nước tồn tại từ xa xưa, liên quan đến những truyền thuyết và câu chuyện thần thoại từ thời xa xưa.
– Đưa ra các truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết.
- Sự tích Trầu Cau, nhấn mạnh về tình đoàn kết, tình bạn và các phong tục tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như ăn trầu nhuộm răng.
- Truyền thuyết Thánh Gióng, gợi nhớ về lòng yêu nước và sự kiên cường chống giặc ngoại xâm.
– Đất Nước tồn tại từ xa xưa, bắt đầu từ những phong tục truyền thống.
- “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc nhở về phong tục búi tóc của phụ nữ xưa.
- “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, thể hiện tình cảm gia đình và tình nghĩa vợ chồng.
- Đất Nước tồn tại từ lâu đời cùng với sự phát triển của người Việt trong cuộc sống hàng ngày như xây nhà, trồng lúa,…
b. Đất nước là gì?
– Về khía cạnh địa lý, Đất Nước là nơi sinh sống của con người, nơi mà họ gọi là nhà, nơi tắm rửa,… là không gian thân quen và gần gũi. Tuy nhiên, Đất Nước cũng có vẻ đẹp hùng vĩ như “núi bạc”, “biển rộng” là nơi mọi người trở về sau những ngày xa cách với quê hương.
– Về mặt lịch sử:
- Quá khứ ấy là một Đất Nước cao quý và to lớn, khi tác giả gợi nhớ về dòng dõi vĩ đại của dân tộc ta, là con cháu của rồng. Đồng thời cũng nhấn mạnh về truyền thống kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc của cha ông.
- Trong hiện tại, Đất Nước hiện diện một cách gần gũi và thân thiện trong từng con người, trong ngôn ngữ để giao tiếp và suy nghĩ, cũng như trong các phong tục tập quán tốt đẹp vẫn còn sống sót trong đời sống hàng ngày.
- Trong tương lai, Đất Nước sẽ là một nơi với triển vọng sáng lạng, những thế hệ tương lai sẽ phải gánh vác trách nhiệm lớn về tri thức và tầm vóc, để góp phần vào sự phát triển kỳ diệu cho dân tộc và Đất Nước.
c. Tư tưởng của nhân dân về Đất Nước:
– Về mặt không gian địa lý:
– Được truyền cảm hứng từ những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam, tác giả dày công nhắc tới chúng trong từng dòng thơ, thể hiện niềm tự hào sâu sắc về quê hương, đất nước.
– Gợi nhớ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
– Đặt nặng việc Đất Nước chúng ta là một dải đất non sông liên kết, từ đó thể hiện ý chí đoàn kết toàn dân, Nam Bắc thống nhất một nhà của người Việt.
– Tượng trưng cho tinh thần cao đẹp của người Việt, là lòng trung thành vững vàng trong tình cảm gia đình, là quyết tâm kiên cường chống lại thế lực xâm lược, nhớ lại những ngày đất nước vươn lên từng bước, và gợi lại cả tinh thần học hành của dân tộc, thậm chí những điều giản dị như con cóc, con gà cũng góp phần làm nên vẻ đẹp của quê hương.
=> Khẳng định mạnh mẽ tư tưởng về Đất Nước của nhân dân, vì Đất Nước là thành tựu của sự đoàn kết, cống hiến từ mọi người, như đã được Nguyễn Khoa Điềm tôn vinh.
* Thời gian qua lịch sử:
– Suốt 4000 năm lịch sử, dân tộc luôn đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc, họ có thể không được ghi danh nhưng lại là những người đã tạo nên Đất Nước.
– Dân tộc không chỉ xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà còn giao lại cho thế hệ sau những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần vô cùng quý báu.
* Về mặt văn hóa:
– Tác giả đã lựa chọn ba câu ca dao đặc trưng để thể hiện ba phẩm chất tinh thần của người Việt Nam, là ba biểu tượng văn hóa tinh thần đặc trưng của dân tộc.
– “Yêu em từ thuở nơi nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, tình yêu thương biết đến quý trọng những người xung quanh.
– “Cầm vàng qua sông trôi/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, thể hiện lòng biết trân trọng tình thân hơn là những giá trị vật chất phù phiếm.
-“Thù này ắt phải còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, thể hiện sự kiên trì trong cuộc chiến chống giặc của dân tộc ta từ xa xưa.
III. Tóm tắt:
– Tổng kết giá trị nghệ thuật của nội dung.
………..
Sơ đồ tư duy về bài thơ Đất nước
Phân tích Đất nước lớp 12 – Mẫu 1
Văn học Việt Nam từ 1945-1975 mang đậm phong cách sử thi và lãng mạn, cùng với việc tôn vinh và xây dựng đất nước. Nguyễn Khoa Điềm, một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ này, đã sử dụng ngôn từ chân thành để miêu tả hình ảnh đất nước và nhân dân, tạo nên một tác phẩm thơ với vẻ đẹp độc đáo và gần gũi.
“Khi lớn lên ta nhận ra Đất Nước đã có từ lâuĐất Nước hiện hữu trong những câu chuyện dân gian từ xưaĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bà mẹ thường ănĐất Nước phát triển khi dân ta biết tự bảo vệTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnGiữa cái kèo, cái cột và tênHạt gạo phải trải qua nắng, sương, xay, giã, giần và sàngĐất Nước tồn tại từ ngày xưa…”
Trong phần trích đoạn từ bài thơ Đất Nước, tác giả bắt đầu bằng việc phân tích vấn đề về nguồn gốc của Đất Nước. Tác giả, thông qua các dòng thơ, đã nêu rõ rằng Đất Nước đã tồn tại từ lâu đời, kết nối với những truyền thuyết và câu chuyện cổ tích từ xa xưa. Qua hình ảnh miếng trầu bà ăn, tác giả kỷ luật về truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhấn mạnh vào tình nghĩa sâu sắc giữa anh em và tình cảm vợ chồng thủy chung. Thông qua việc kể về việc trồng tre và đánh giặc, tác giả tái hiện truyền thuyết Thánh Gióng, với ý nghĩa của lòng yêu nước và sự kiên cường chống lại kẻ thù. Cuối cùng, tác giả nhấn mạnh rằng Đất Nước được hình thành từ sự phát triển của con người và văn hóa dân tộc, mang trong mình những giá trị bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử. Đây là một cái nhìn đầy triết lý và sâu sắc về bản chất của Đất Nước.
Thứ hai, tác giả tường thuật về quá trình hình thành của Đất Nước, từ việc con người sống trong hang động đến việc xây dựng những mái nhà và trồng lúa. Thông qua việc miêu tả công việc hàng ngày của nhân dân, tác giả cho thấy sự tiến bộ của con người Việt Nam trong việc chinh phục và tạo dựng môi trường sống. Cuối cùng, tác giả khẳng định rằng Đất Nước đã tồn tại từ những ngày đầu tiên của lịch sử, bắt đầu từ những truyền thuyết và phong tục của dân tộc.
Cuối cùng, tác giả đề cập đến tình cảm của con người đối với Đất Nước thông qua việc tạo ra một loạt các hình ảnh tưởng tượng về nơi đây. Tác giả mô tả về mối quan hệ gần gũi và thân thiện giữa con người và Đất Nước, thể hiện sự kết nối mạnh mẽ giữa dân tộc và quê hương. Những hình ảnh này gợi lên những cảm xúc sâu sắc và tình cảm trìu mến của người đọc đối với Đất Nước.
Sau khi đặt câu hỏi về nguồn gốc của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khám phá ý nghĩa của Đất Nước trong câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời theo lối của khoa học mà dùng lối của một nhà thơ, tách Đất Nước thành “Đất” và “Nước”, định nghĩa một cách sâu sắc và đầy đủ. Từ góc độ địa lý, ông mô tả “Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em tắm”, tạo ra hình ảnh gần gũi và thân thuộc với cuộc sống hàng ngày. Ông kết hợp hai thành tố thành “Đất Nước” để thể hiện tình yêu và sự gắn kết của người dân, biến Đất Nước thành một không gian riêng tư và đầy ý nghĩa. Từ việc gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, ông khẳng định sự cao quý và hào hùng của dân tộc, cùng với trách nhiệm của mỗi người dân trong việc gìn giữ và phát triển Đất Nước.
Tác giả mô tả Đất Nước thông qua một chuỗi hình ảnh tưởng tượng, từ đó thể hiện sự gắn kết và quan trọng của nó trong tâm hồn mỗi người dân. Từ việc nhắc đến lời dặn dò của tổ tiên đến việc tạo ra một môi trường sống hài hòa và bền vững, tác giả gợi lên sự tự hào và trách nhiệm của mỗi người dân đối với Đất Nước.
Tác giả đưa ra một cái nhìn tổng quan về ý nghĩa của Đất Nước thông qua lịch sử và hiện tại. Từ việc mô tả về truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ đến việc khuyến khích sự đoàn kết và yêu thương giữa mọi người, tác giả thể hiện sự tôn trọng và lòng trung thành với quê hương.
Tác giả mô tả Đất Nước như một phần không thể thiếu trong tâm hồn mỗi người dân. Từ việc gợi nhắc về truyền thống và trách nhiệm của mỗi người dân đến việc tạo ra một môi trường sống tươi đẹp và phồn thịnh, tác giả thể hiện sự biết ơn và tình yêu thương đối với Đất Nước.
Tác giả mô tả Đất Nước như một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người dân. Từ việc mô tả về sự gắn kết và quan trọng của nó đối với mỗi cá nhân đến việc khuyến khích sự đoàn kết và tình yêu thương giữa mọi người, tác giả thể hiện lòng trung thành và sự tự hào với Đất Nước.
“Khi con lớn lênCon sẽ dẫn Đất Nước đi xaĐến những kỷ niệm tươi đẹp”
Trong tương lai, Đất Nước sẽ tỏa sáng với những triển vọng rực rỡ, thế hệ tương lai sẽ được kỳ vọng, chịu trách nhiệm lớn về trí tuệ và tầm vóc, để tạo nên những điều kỳ diệu cho dân tộc và Đất Nước. Con sẽ dẫn Đất Nước bay xa, cùng với các cường quốc trên thế giới, để biến Đất Nước trở nên giàu mạnh và vững bền hơn bao giờ hết.
Sau khi định nghĩa rõ ràng về Đất Nước về không gian và thời gian, về địa lý và lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định trách nhiệm quan trọng của mỗi cá nhân đối với sự phát triển của Đất Nước.
“Em ơi, Đất Nước là máu xương của taPhải hiểu và chia sẻPhải thể hiện cho dáng hình xứ sởĐể làm nên Đất Nước vĩnh cửu…”
Như lời tâm tình của anh em, lời tâm tình của một người đàn ông với một người phụ nữ, cũng như lời nhắc nhở từ thế hệ trước đến thế hệ sau, lời nhắc nhở từ cách mạng đến tuổi trẻ đô thị, những người sống trong thị trấn miền Nam yên bình. Đất Nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà còn là máu và xương của mỗi người, là nền tảng của cuộc sống. Mỗi người phải “hiểu” và “chia sẻ”, đóng góp cho Đất Nước để tạo nên một tương lai bền vững. Cần phải thực hiện tình yêu quê hương qua hành động, không chỉ là ý thức mơ hồ mà còn là sự thực thi qua việc hành động cụ thể. Mỗi cá nhân phải “chăm sóc và chia sẻ”, đặc biệt là “phải thể hiện cho dáng hình xứ sở”, dâng cả sự sống và sự hy sinh cho Đất Nước, coi trọng quê hương hơn cả hạnh phúc riêng của bản thân.
Sau những dòng thơ nói về sự hình thành và phát triển của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu nhấn mạnh vào ý niệm về Đất Nước của nhân dân, bằng việc đặt câu hỏi Đất Nước do ai tạo nên.
“Những người phụ nữ nhớ người chồng đã cống hiến cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp đôi yêu nhau góp phần xây dựng hòn Trống MáiThần Gióng với chiếc giày sắt đã qua đây, để lại trăm ao đầmChín mươi chín con voi đã đóng góp vào việc xây dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng yên bình đóng góp cho dòng sông xanh thẳmNhững học trò nghèo giúp Đất Nước thêm núi Bút và non Nghiên.Cả con cóc, con gà quê hương đều đóng góp vào việc biến Hạ Long trở thành cảnh đẹpNhững người dân đã góp công lao tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Tác giả cảm nhận Đất Nước qua những danh lam thắng cảnh nổi tiếng trên khắp Việt Nam bằng cách kể tên chúng một cách dày đặc trong từng câu thơ. Những địa danh này không chỉ gắn liền với cảm xúc tự hào của người Việt mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết dân tộc. Việc liệt kê các địa danh như vậy cũng nhấn mạnh rằng Đất Nước chúng ta là một thể thống nhất, từ Nam ra Bắc. Đồng thời, những danh lam thắng cảnh ấy cũng là biểu tượng cho lòng yêu thương quê hương và tinh thần hy sinh vì Đất Nước.
“Và khắp nơi trên ruộng đồng, đồi núiKhông một dấu vết, một ước mơ, một phong cách sống của ông chaÔi Đất Nước sau hàng ngàn năm, chúng ta vẫn cảm nhậnNhững cuộc đời đã tạo nên núi non, sông suối…”
Sau khi giải thích về tư tưởng của nhân dân về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm nâng cao tầm quan trọng của ý niệm Đất Nước. Ông khẳng định về sự vĩ đại của Đất Nước thông qua các hình ảnh như “khắp ruộng đồng, đồi núi”, mở ra một không gian rộng lớn, sau đó nhấn mạnh về sự vĩnh hằng của Đất Nước qua thời gian. Từ đó, ông nhấn mạnh rằng nhân dân là người đã xây dựng nên Đất Nước vĩ đại và lịch sử.
“Em ơi emHãy nhìn xa về quá khứ 4000 năm của Đất NướcMọi thời kỳ đều có người lao độngCác chàng trai, cô gái đồng tuổi với chúng taChăm chỉ làm việcKhi có chiến tranh, nam giới ra trậnPhụ nữ về nhà chăm sóc gia đình và con cáiKhi kẻ thù đến, phụ nữ cũng chiến đấuNhiều người trở thành anh hùngKhắp nơi, cả anh và em đều nhớ những người đóEm có biết khôngBao nhiêu nam nữTrong 4000 năm lịch sửHọ đã sống và chếtGiản dị và bình thảnKhông ai nhớ tên mặtNhưng họ đã tạo nên Đất Nước”
Tư tưởng về Đất Nước của nhân dân tiếp tục được khẳng định qua lịch sử. Trong suốt 4000 năm, mọi người đã cần cù để xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Khi có chiến tranh, nam giới chiến đấu, phụ nữ chăm sóc gia đình và con cái. Sự dũng cảm của ông cha trong cuộc chiến chống lại kẻ thù đã tạo ra những anh hùng. Dù không ai nhớ tên mặt họ, nhưng họ vẫn là những người đã làm nên Đất Nước.
“Họ giữ lại và truyền cho chúng ta những hạt lúaHọ chuyển giao lửa từ thế hệ này sang thế hệ khácHọ truyền lại tiếng nói của họ cho con cháuHọ gắn bó với tên làng, xã trong mỗi cuộc di cưHọ xây dựng cơ sở để thế hệ sau có thể phát triểnKhi có xâm lược, họ chống lạiKhi có mâu thuẫn nội bộ, họ đoàn kết để giải quyếtVà Đất Nước này là của Nhân dân”
Nhân dân không chỉ xây dựng và bảo vệ Đất Nước, mà họ còn truyền lại giá trị văn hóa và tinh thần cho thế hệ sau. Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh nông nghiệp, lửa sáng và ngôn ngữ của họ, cùng với cái tên của làng xóm trong mỗi cuộc di cư, và cơ sở để thế hệ sau phát triển.
“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của truyền thống và tâm hồnDạy chúng ta yêu quý từ thuở béDạy chúng ta trân trọng công lao trong những ngày làm việc mệt mỏiDạy chúng ta kiên nhẫn đợi chờ thành côngChống lại kẻ thù và giữ vững lòng quyết tâmĐể Đất Nước này mãi là của Nhân dân”
Văn hóa Việt được Nguyễn Khoa Điềm vinh danh qua sự đẹp đẽ của tâm hồn dân tộc. Nhìn vào văn học dân gian, ta thấy bức tranh văn hóa Đất Nước và nhân dân rõ nét. Tác giả chọn ba câu ca dao để thể hiện ba phẩm chất văn hóa tiêu biểu của người Việt: ‘Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru’, một tình yêu đậm chất nhân ái. ‘Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng’, tinh thần quý trọng tình thân hơn là vật chất. Cuối cùng, câu tục ngữ ‘Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què’, tinh thần kiên trì trong cuộc chiến tranh chống lại kẻ thù.
‘Những dòng sông chảy bao laMang tiếng hát của Đất NướcNgười chèo đò hát, thuyền vượt thácGợi lên vẻ đẹp đa dạng của dòng sông’
Trích đoạn từ trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của quê hương. ‘Dòng sông’, bất kể bắt nguồn từ đâu, khi chảy qua quê hương vẫn mang giọng hát riêng của Đất Nước. Mỗi người Việt, trong cuộc sống hàng ngày trên dòng chảy đó, đều tạo ra một văn hóa kéo dài suốt 4000 năm.
Nguyễn Khoa Điềm thông qua Đất Nước đã thể hiện tình yêu và suy tư sâu sắc về quê hương trên nhiều khía cạnh. Văn phong của ông truyền tải tinh thần lãng mạn và cảm xúc mạnh mẽ, kết hợp với văn hóa dân gian, tạo ra sự độc đáo và ấn tượng. Giọng điệu của đoạn trích như lời của những người yêu nhau, làm cho nội dung trở nên mềm mại, ngọt ngào.
Phân tích về Đất Nước, mẫu số 2
‘Tổ Quốc như máu thịtNhư cha mẹ, như vợ chồng’‘Tổ Quốc cần ta hy sinhCho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông’
Chế Lan Viên và Nguyễn Khoa Điềm, qua thơ của họ, đều tôn vinh tình yêu và trách nhiệm với Tổ Quốc. ‘Đất Nước’ của Điềm gợi lên niềm tự hào và trách nhiệm bảo vệ đất nước.
Bài thơ mở đầu với việc nói về sự hiện diện của đất nước trong cuộc sống của mỗi người:
‘Khi lớn lên, Đất Nước đã có sẵn’…
Đất Nước là nơi em đặt khăn trong nỗi nhớ thầm’
Câu thơ đầu tiên phát ngôn tự nhiên, đất nước tồn tại từ xa xưa, một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người.
Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh mối liên kết giữa đất nước và mỗi cá nhân:
‘Đất là nơi anh học hành…Mỗi người đều mang một phần đất nước’
Đất nước gắn bó với nơi quen thuộc và các truyền thuyết lịch sử, thể hiện sự hiện diện mạnh mẽ trong cuộc sống và ý thức quốc gia.
Những dòng thơ tiếp theo là lời nhắn nhủ chân thành của tác giả:
Em ơi em…Làm nên sự sống bền vững của Đất Nước’
Tác giả truyền đạt tâm hồn mến yêu một cách chân thành, nhấn mạnh vai trò của mỗi người trong việc bảo vệ và nuôi dưỡng Đất Nước.
Khổ thơ tiếp theo tôn vinh tư tưởng Đất Nước là của nhân dân:
‘Những người vợ nhớ chồng cống hiến cho Đất Nước những trái tim vĩ cung…Chiến đấu mà không sợ vượt qua hàng ngàn thế hệ’
Nguyễn Khoa Điềm thể hiện sự nhạy cảm và nhân văn khi đưa phẩm chất con người vào các yếu tố biểu tượng của đất nước, từ con người đến động vật, từ không gian địa lý đến chiều sâu lịch sử, tạo nên một bức tranh văn hóa phong phú và sâu sắc về đất nước.
Khi đến phần kết, nhà thơ nhấn mạnh vai trò của mỗi cá nhân trong việc xây dựng quê hương:
‘Ôi những dòng sông trải dài chừng nào?…Hiện lên vẻ đa dạng trên từng dòng nước’
Thơ ‘Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu?/ Mà khi về quê hương ta thì bắt đầu ca hát’ nhấn mạnh đặc điểm về địa lí của Việt Nam. Ở câu thơ cuối, từ ‘trăm màu’ nhấn mạnh sự phong phú và đa dạng trong văn hóa dân tộc. Nhà thơ nhấn mạnh rằng Đất Nước được hình thành từ nhân dân, do nhân dân tạo nên và tồn tại nhờ vào nhân dân.
Bằng cách sử dụng ngôn ngữ giàu sức sống, sáng tạo và suy tư triết học sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã giúp người đọc hiểu được hình ảnh Đất Nước ở nhiều phương diện như lịch sử, địa lí. Từ đó, nhấn mạnh trách nhiệm của thế hệ trẻ với quê hương, đất nước.
Phân tích Đất nước của học sinh giỏi – Mẫu 3
Dân tộc Việt Nam từ ngày xưa đến nay luôn tỏ ra yêu nước, gan dạ, sẵn lòng hy sinh để bảo vệ tự do cho Tổ quốc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã có vô số tác phẩm văn thơ ra đời để động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Trong số đó, không thể không nhắc đến Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, với đoạn trích về Đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm nổi tiếng với phong cách thơ trữ tình chính luận độc đáo. Thơ của ông thu hút người đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc sâu lắng và suy tư tri thức về vai trò, trách nhiệm của mỗi người trong cuộc chiến vì đất nước và dân tộc. “Trường ca Mặt đường khát vọng” là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của ông. Đoạn trích về Đất nước nằm trong chương V của bài thơ này mang lại cái nhìn mới mẻ về quê hương.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi….………………………………..Đất Nước có từ ngày đó…”
Tác giả khẳng định mạnh mẽ rằng Đất nước đã tồn tại từ rất lâu, khi con người mới sinh ra trên mảnh đất của mình, đó là quê hương của họ. Đất Nước đã xuất hiện từ rất xa xưa, như một phần không thể thiếu, trong quá khứ lịch sử với các vua Hùng đã xây dựng và bảo vệ nước. Đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà còn là một phần gắn bó, thân quen trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Từ những bài hát ru của mẹ, những câu chuyện dân gian đã giúp ta hiểu rõ hơn về văn hóa của mình, điều này đã nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành và trở thành một phần không thể thiếu của kí ức đẹp đẽ. Nhai trầu đã trở thành một phong tục quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là các bà mẹ, và từ lâu câu chuyện sự tích trầu cau đã kể về tình cảm con người. Từ thời kỳ hai Bà Trưng, Bà Triệu, đất nước đã mạnh mẽ đứng lên chống giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết về Thánh Gióng, với hình ảnh nhổ luỹ tre đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là biểu tượng của người nông dân Việt Nam, chân thành, kiên cường, bền bỉ nhưng cũng rất mạnh mẽ và kiên cường.
Ngoài truyền thống yêu nước, tác giả còn đề cập đến những hình ảnh mang tính đặc trưng văn hóa dân gian, giản dị của con người Việt Nam:
“Tóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Từ xa xưa, hình ảnh phụ nữ Việt Nam luôn liên kết với mái tóc dài, được buội gọn sau đầu. Vẻ đẹp ấy của một người mẹ, người chị, của một người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu đặc trưng. Tác giả sử dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” để diễn tả sự đậm đà của tình thương, nhấn mạnh đến sự bền chặt và đoàn kết trong mối quan hệ con người. Ngoài ra, tác giả còn nêu bật truyền thống lao động sản xuất của người dân, kể từ việc chặt gỗ để xây nhà đến quá trình sản xuất lúa gạo, đề cao công lao của người nông dân trong sự phát triển của đất nước.
Tác giả khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó…” – một ngày không biết chính xác là ngày nào, chỉ biết rằng đó là thời điểm bắt đầu có truyền thống, phong tục và văn hoá đặc trưng của dân tộc Việt Nam, là ngày mà Đất nước của chúng ta bắt đầu tồn tại.
Tiếp theo, tác giả định nghĩa về Đất nước một cách độc đáo:
“Đất là nơi em đến trường.…………………………..Cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đất nước không chỉ được cảm nhận qua không gian địa lí hay lịch sử mà còn qua không gian sinh hoạt thân thuộc. “Đất” đại diện cho nam tính, “nước” đại diện cho nữ tính nhưng cùng hợp lại thành tình yêu đôi lứa. Đây cũng là nơi tình yêu được thể hiện, nơi ghi lại những kỷ niệm và nhớ thương của thời gian dài dặc.
Từ những suy nghĩ về Đất nước, tác giả nhắn nhủ con người không quên cội nguồn và biết ơn tổ tiên, nhớ đến ngày giỗ tổ Hùng Vương – người đã xây dựng nền móng cho Đất nước ngày nay.
Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận Đất Nước qua bề rộng của không gian, chiều dài của lịch sử, và sâu sắc của truyền thống văn hóa. Đất Nước là sự thống nhất giữa cái hằng ngày và cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng.
Sau những suy ngẫm về Đất nước, tác giả nhấn mạnh trách nhiệm của con người trong việc duy trì và làm cho Đất nước tồn tại mãi mãi.
Xem thêm : Nghi vấn Tiktoker Gấm Kami lộ clip thẩm du trên stripchat
“Trong anh và em hôm nay……………………………Làm nên Đất Nước muôn đời”
Đất nước gần như là phần máu thịt của mỗi người dân. Đất nước của tình yêu đôi lứa là một nơi hòa hợp và nồng nàn. Đất nước của dân tộc đoàn kết là nơi mạnh mẽ, có thể đương đầu với mọi thách thức. Tác giả truyền đạt niềm tin vào thế hệ tương lai, rằng họ sẽ đóng góp vào sự phát triển của đất nước và đưa nó sánh vai với các cường quốc trên thế giới.
“Em ơi em” – một lời gọi yêu thương, thể hiện trách nhiệm của mỗi người với đất nước. Phải biết san sẻ và hi sinh để bảo vệ đất nước, để nó tồn tại mãi mãi.
Tác giả nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước, vì chúng ta là một phần của nó. Mỗi người đều phải giữ gìn và phát huy nền văn hóa của đất nước.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….………………………………………Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Nguyễn Khoa Điềm thông minh khi sử dụng chất liệu dân gian để tạo ra bài thơ của mình. Tác giả giới thiệu những câu chuyện như hòn Vọng Phu và Trống Mái để tôn vinh tình yêu thương và lòng trung thành của vợ chồng, nhấn mạnh rằng tình cảm này tồn tại khắp nơi trên đất nước.
Không chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm cũng tôn vinh lịch sử và lòng yêu nước của dân tộc. Thánh Gióng, vị anh hùng nhỏ tuổi đã dũng cảm ra trận đánh đuổi giặc Ân, giành lại độc lập cho nước nhà. Đất Tổ thờ vua Hùng linh thiêng với bức tranh đàn voi chín mươi chín con. Câu chuyện và truyền thuyết này gắn liền với tất cả mọi người trên Đất nước, trở thành nguồn tự hào vô tận của chúng ta.
Chúng ta có thể tự hào về đất nước này, nơi có những con người hiếu học. Có bao nhiêu tấm gương nghèo vượt khó trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu bằng những ngọn núi Bút, non Nghiên. Dù là người nổi tiếng hay người vô danh, họ đều xứng đáng được tôn vinh và học tập.
Đất nước hình thành từ những điều nhỏ bé: những quả núi hình con cóc, con gà quây quần làm nên Hạ Long – di sản thế giới. Các ngọn núi mang tên các anh hùng để tôn vinh công lao và giữ gìn giá trị quý báu cho nước nhà. Ao đầm, gò bãi là hóa thân của những con người làm nên đất nước. Mọi nơi đều đậm chất kỷ niệm của thế hệ ông bà. Hành trình lịch sử hơn bốn nghìn năm sẽ tiếp tục và sẽ còn nhiều kỷ niệm, giai thoại được ghi lại. Nhưng lối sống của cha ông không bao giờ phai mờ, nó là niềm tự hào của con cháu.
“Em ơi emHãy nhìn rất xa….…………………………………..Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Nguyễn Khoa Điềm không chỉ đề cập đến các vị anh hùng hay triều đại, mà còn nhấn mạnh đến những con người bình dân, dũng cảm và kiên cường. Họ là những người không nổi tiếng nhưng đã đóng góp lớn cho đất nước. Họ là anh hùng của cuộc sống hàng ngày, giữ vững và truyền lại giá trị văn hóa, tinh thần cho thế hệ sau.
Tác giả nhấn mạnh rằng Đất nước là của nhân dân, do nhân dân tạo ra, kết nối với câu ca dao, thần thoại từ xa xưa, là cội nguồn của dân tộc, văn hóa dân gian. Anh em cần đoàn kết, yêu thương nhau từ khi còn nhỏ; trân trọng công lao trong những ngày gian khổ; nuôi dưỡng ý chí để chống lại giặc ngoại xâm. Tác giả tái hiện vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của thế hệ Việt Nam và tình yêu thương tồn tại khắp mọi nơi trên đất nước này.
Nhiều năm trôi qua nhưng đoạn thơ và trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ vững giá trị ban đầu và ghi dấu trong lòng nhiều thế hệ người Việt. Tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm khuyến khích ta yêu quý Đất nước và khích lệ chúng ta hành động để bảo vệ và phát triển đất nước.
Phân tích về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Ai cũng đã từng tự hỏi liệu có mối tình nào sâu sắc hơn tình yêu đối với Tổ quốc không? Để trả lời cho câu hỏi đó, đã có rất nhiều bài thơ được viết ra. Chúng ta thấy hình ảnh của đất nước đau thương và dũng cảm trong thơ của Nguyễn Đình Thi, của Lê Anh Xuân và của Xuân Diệu. Trong bài thơ ‘Đất nước’, Nguyễn Khoa Điềm cũng đề cập đến chủ đề này.
Tác phẩm ‘Đất nước’ cùng với các trường ca khác như ‘Theo chân bác’ (Tố Hữu), ‘Bài ca chim chơ Rao’ (Thu Bồn)… thể hiện cảm xúc xoay quanh cuộc đời của nhân vật anh hùng. Riêng ‘Mặt đường khát vọng’ của Nguyễn Khoa Điểm tập trung vào quá trình tỉnh thức của tuổi trẻ thành thị, nhìn nhận tình hình đất nước để đấu tranh và chịu trách nhiệm với tương lai của đất nước.
“Khi ta trưởng thành, Đất Nước đã hiện diện…Đất Nước đã tồn tại từ những ngày đó …”
Đoạn thơ với dòng lời nhẹ nhàng, thủ thỉ đã dẫn chúng ta trở về nguồn cội của Đất nước. Đất nước tồn tại từ những ngày tháng năm bao xa xôi, không ai biết chính xác, chỉ biết rằng:
“Khi ta trưởng thành, Đất Nước đã tồn tại rồiĐất Nước hiện hữu trong những câu chuyện “xưa kia…” mẹ thường kể”Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà đang nhaiĐất Nước phát triển khi dân ta biết cấy trồng và đánh đuổi kẻ thù“
Khi nói về cội nguồn của đất nước, tác giả nêu rõ đất nước liên kết với các phong tục truyền thống, với những câu chuyện dân gian, và với tinh thần lao động, anh hùng kiên cường chống lại kẻ thù ngoại xâm. Lời thơ truyền đạt như câu chuyện, hình ảnh đơn giản, gần gũi và tác giả sử dụng yếu tố văn hóa dân gian để giải thích nguồn gốc của đất nước, gần gũi và có mặt trong mỗi gia đình bình dân, gần gũi nhưng đầy thiêng liêng.
Tiếp theo là cách tác giả cảm nhận đất nước từ phía địa lý, lịch sử và nhấn mạnh ý thức về nguồn gốc dân tộc. Đối với phần địa lý, tác giả cảm nhận:
‘Đất là nơi ta học hànhNước là nơi ta tắm rửaĐất Nước là nơi ta gặp gỡĐất Nước là nơi em vấp phải ký ức trong tâm hồn u hoàiĐất là nơi ‘chim bồ câu quay về tổ trên cành’Nước là nơi ‘cá hồi ngựa vùng biển cả’
Tác giả xác định một cách cụ thể: ‘Đất là ….., Nước là….. và Đất Nước là ….Đất nước được thể hiện như những không gian thân thuộc, gắn bó như nơi ta hẹn hò, nơi em lạc mất chiếc khăn trong niềm nhớ mong manh.
Đất là nơi ‘chim bồ câu quay về tổ trên cành’Nước là nơi ‘cá hồi ngựa vùng biển cả’
Đúng vậy, đất nước bắt đầu từ những tình cảm bé nhỏ, sau đó lớn lên thành một tình yêu to lớn, trang trọng, liên kết và thống nhất hoàn toàn. Về mặt lịch sử, đất nước là nơi mà dân tộc chúng ta sum họp, đoàn tụ.
‘Thời gian trôi dạtKhông gian vô tậnĐất Nước là nơi mà dân tộc chúng ta sum họpĐất là nơi chim quay về tổNước là nơi rồng sinh sốngLạc Long Quân và Âu CơLà cha mẹ của dân tộc ta, sinh ra chúng ta trong quả trứng’X
Đất nước là nơi mà cả dân tộc ta sinh sống qua hàng thế hệ, từ khi Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra dòng họ cho đến hiện nay và trong tương lai. Nó là không gian vững chắc, mở rộng trên bề mặt rộng lớn. Từ cảm nhận này, nhà thơ nhắc nhở về ý thức cội nguồn dân tộc, và thế hệ tiếp theo phải biết trân trọng công lao của những người đi trước, kính nhớ đến đất Tổ và dòng họ của mình.
‘Những ai đã ra điNhững ai ở đâyYêu nhau, sinh con truyền dòng máuĐảm đang vai trò của người đi trướcDạy dỗ con cháu về tương laiHàng năm, trong mọi công việcĐều biết kính nhớ ngày giỗ Tổ’
Bằng cách diễn đạt đơn giản, vừa hiện đại nhưng gần gũi, đoạn thơ không chỉ thể hiện cảm nhận về đất nước mà còn truyền tải tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả và thông điệp ý nghĩa dành cho mọi người. Đất nước không chỉ là nơi gắn bó với anh, với em, mà còn với tất cả chúng ta:
‘Trong ta và anh chị hôm nayĐều chứa đựng một phần của Đất Nước’
Với giọng thơ tình cảm, ngọt ngào như lời của hai trái tim yêu nhau, tác giả khẳng định con người là trung tâm tạo nên đất nước, mỗi cá nhân là một phần của cộng đồng, đất nước tồn tại nhờ vào sự gần gũi, yêu thương và tự hào của mỗi người.
‘Đất là nơi ta học hànhNước là nơi ta tắm rửaĐất Nước là nơi ta hẹn hòĐất Nước là nơi ta vấp phải kỷ niệm trong nỗi nhớ thương’
Đất nước tồn tại trong không gian của chúng ta với tất cả sự thân thương và yêu mến. Chính điều đó đã tạo nên:
“Khi đôi ta nắm tay nhauĐất Nước trong chúng ta hòa mình trong sự đoàn kết và sẻ chiaKhi tay này liên kết với tay khácĐất Nước vững vàng, to lớn.”
Khi hai trái tim hòa quyện, tình yêu cũng là lúc đất nước nhỏ được hình thành để cùng xây dựng đất nước to lớn hơn. Khi chúng ta cùng nhau nắm tay – khi mọi người đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau – khi có tình đoàn kết, sẻ chia với đồng bào, mới tạo ra sức mạnh để đất nước trở nên ‘to lớn, vững mạnh để viết nên trang sử dân tộc và đất nước.
“Khi con chúng ta trưởng thànhCon sẽ đem theo hình ảnh Đất NướcĐến với những kỷ niệm trong tâm hồn”
Thế hệ con cháu trong tương lai sẽ tiếp nối công việc của cha ông, hợp tác xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh, văn minh. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, sâu lắng:
‘Em ơi, đất nước là máu xương của chúng taPhải biết gắn bó và chia sẻPhải hiện hình cho quê hươngTạo nên đất nước vĩnh cửu’
Nhà thơ gọi gắn bó với tình yêu thương “em ơi” để nhắn nhủ rằng đất nước là mồ hôi, xương máu của tổ tiên, của dân tộc hàng đời. Vì thế, “phải biết” gắn bó, chia sẻ, hiện hình cho quê hương – phải hiểu biết, đoàn kết, đóng góp và hy sinh cho đất nước. Ngay cả trong cuộc chiến chống Mỹ quyết liệt, lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng trống đánh thức tinh thần chiến đấu của mỗi người dân để bảo vệ và giữ gìn đất nước.
Nhà thơ truyền tải vào từng dòng thơ sự ca ngợi đất nước:
‘Những người vợ nhớ chồng đã đóng góp cho đất nước những núi rừng…Những cuộc đời đã biến thành sông núi của chúng ta…’
Đoạn thơ tôn vinh đất nước hùng vĩ, khẳng định những phẩm chất cao quý của quê hương, con người Việt Nam. Đất nước hùng vĩ với danh lam thắng cảnh đã trở thành huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm thể hiện cái nhìn nhân văn rằng những ngọn núi, những hòn đảo đóng góp vào sự kỳ vĩ của đất nước. Dường như, tình yêu hạnh phúc của các cặp đôi đã làm cho đất nước trở nên kỳ diệu, vĩ đại hơn.
Hai câu thơ kế tiếp tôn vinh vẻ đẹp của đất nước từ góc độ lịch sử và truyền thống:
‘Gót ngựa Thánh Gióng đi qua, còn lại trăm ao đầmChín mươi chín con voi hỗ trợ xây dựng đất Tổ Hùng Vương’
“Gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại hàng trăm ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. Chín mươi chín con voi ở Phong Châu đã tụ tập, hỗ trợ xây dựng đất nước của tổ tiên Hùng Vương. Những từ ngữ “đi qua vẫn còn lại”, “hỗ trợ xây dựng” rất bình dị nhưng đáng tự hào, tự hào về sự thiêng liêng của đất nước. Đất nước có núi cao, biển rộng, sông dài, có Sông Hồng “đỏ nặng phù sa”, có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa mà tác giả so sánh như con rồng.
‘Những con rồng yên lặng góp sông xanh thẳm’
Những con rồng ‘nằm im’ từ bao đời nay, mà người dân Nam Bộ yêu mến, có ‘dòng sông xanh thẳm’ với nước ngọt phù sa, tôm cá,… tạo nên hình ảnh đất nước tươi đẹp, con người Việt Nam tài hoa và chịu khó. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nói về ‘địa linh nhân kiệt’ với tinh thần tôn sư trọng đạo của nhân dân ta. Những học trò nghèo góp phần cho đất nước bằng Núi Bút, non Nghiên. Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh nhờ có ‘Con cóc, Ông Đốc, Ông Trang … làm nên. Nhà thơ tôn vinh đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm ‘làm nên đất nước muôn đời’. Tám câu thơ với nhiều địa danh và cổ tích huyền thoại thể hiện niềm tự hào và biết ơn của tác giả về phẩm chất của con người: trí tuệ, trung hậu, cần cù, anh dũng,… Chính những vẻ đẹp của con người làm cho non sông trở nên gấm vóc thêm giàu đẹp.
Sau tám câu thơ là giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Bằng giọng văn chính luận kết hợp với chất trữ tình đằm thắm.
Và ở khắp nơi trên ruộng đồng, đồi núiKhông mang một hình bóng, ước mơ, hoặc lối sống của tổ tiênÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu cũng thấyNhững cuộc đời đã biến núi sông ta….
Bốn câu thơ là dáng vẻ của đất nước hiện lên mộc mạc, đơn sơ nhưng thân thương, gần gũi với đồng ruộng, nương tửa…. Đất nước với tất cả đơn sơ ấy là hình ảnh mà cha ông mong ước, gắng sức xây dựng. Dường như con người là hạt nhân lớn nhất để đất nước thêm phong phú, đẹp và tươi mới. Qua hình tượng đất nước, tác giả tôn vinh tâm hồn nhân dân, bản lĩnh dân tộc và dáng vẻ Việt Nam, bày tỏ lòng yêu quê hương đất nước.
Tư tưởng về đất nước của nhân dân được tác giả thể hiện qua từng câu văn:
‘Này em ơi…….Khơi gợi trăm màu trên dòng sông thơ mộng.’
Bắt đầu đoạn thơ là lời gọi thân thiết, ngọt ngào ‘Này em ơi’ hãy nhìn về bốn nghìn năm lịch sử đất nước, nhìn lại quá khứ của nhân dân, đất nước với 4000 năm văn hiến gắn bó với những con người Việt Nam chăm chỉ trong lao động và dũng cảm trong cuộc chiến:
‘Mười hai tháng cả năm người người công việcCả con gái và con trai bằng tuổi nhauChăm chỉ làm việcKhi có kẻ thù, người con trai ra trậnNgười con gái trở về chăm sóc con cái cùng gia đìnhKhi kẻ thù đến, phụ nữ cũng tham chiến’
Giọng thơ vừa tình cảm vừa khẳng định truyền thống cao quý của con người Việt Nam với tám chữ vàng: kiên cường, bất khuất, trung hậu, và đảm đang.
‘Nhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả em và anh đều ghi nhớ’
Trong hành trình xây dựng và bảo vệ đất nước, có những người đã hy sinh im lặng mà tác giả không bao giờ quên:
‘Nhưng có biết khôngCó biết bao con ngườiTrong bốn nghìn lớp người như chúng ta cùng tuổiHọ đã sống và khuấtGiản dị và thanh thảnKhông ai ghi nhận hay tôn vinhNhưng họ làm nên Đất Nước’
Chính nhân dân là những người có công lớn trong hành trình của quá khứ, hiện tại và tương lai:
‘Họ giữ và truyền lại cho chúng ta hạt lúa ta gieoHọ truyền lửa qua mỗi ngôi nhà, từ đời này sang đời sauHọ truyền âm điệu của mình cho con em tập nóiHọ mang theo tên xóm, tên làng trên mỗi hành trình di cưHọ xây đập dựng bờ bãi để con cháu trồng cây hái quảCó kẻ xâm lược thì họ chống lại kẻ xâm lượcCó mối thù nộ bên trong thì họ đứng lên đánh bại mối thù đó’
Tác giả sử dụng phép lặp, hình ảnh sống động và sức thu hút mạnh mẽ để khẳng định sức mạnh của nhân dân trong việc sáng tạo và bảo vệ cả giá trị vật chất và tinh thần của đất nước trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tác giả khẳng định:
‘Hãy để quê hương này thuộc về nhân dânQuê hương của nhân dân, của những câu chuyện dân gian và truyền thuyết’
Bằng lời thơ trữ tình và sâu lắng, tác giả khẳng định vai trò chủ đạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Liệu rằng tác giả có ý nhắc nhở mỗi công dân về trách nhiệm, tình yêu nước và lòng tự hào dân tộc.
‘Dạy anh yêu em từ khi còn trong nôiHọc biết trân trọng những ngày lao độngHọc cách trồng tre, đợi ngày thành gậyĐi trả thù mà không sợ sự trì hoãn’
Sử dụng tài liệu văn học dân gian một cách sáng tạo để nhấn mạnh và khẳng định những truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: tình yêu sâu đậm và lòng dũng cảm trong cuộc chiến. Đó chính là sức mạnh để quê hương chiến thắng và phát triển. Nhà thơ hiểu được nguồn năng lượng từ nhân dân, vì thế hy vọng và tin tưởng:
‘Oh, những dòng sông lấy nước từ đâuNhưng khi chảy về quê hương, chúng trở thành giai điệuNgười đến hòa mình trong âm nhạc, khi lái đò, kéo thuyền vượt qua thácGợi lên hàng trăm màu sắc trên dòng sông uốn lượn.’
Bằng giọng thơ sâu lắng và tình cảm, với sự sáng tạo từ các yếu tố văn học dân gian, cùng những ý tưởng đẹp và cảm xúc chân thành, tác giả đã truyền đạt niềm tự hào và tình yêu mãnh liệt đối với quê hương và đất nước.
Nhờ việc sử dụng một cách tự nhiên và sáng tạo, cách diễn đạt dễ hiểu và hiện đại, tạo ấn tượng gần gũi và mới mẻ cho người đọc, kết hợp giọng thơ trữ tình và chính trị sâu lắng và giàu ý nghĩa, Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở thế hệ trẻ hôm nay phải phấn đấu hơn nữa vì sự phồn thịnh bền vững của đất nước và hãy nhớ:
‘Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho chúng ta mà hãy tự hỏi chúng ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay’
Đánh giá về Đất nước – Mẫu 5
Viết về đất nước luôn là nguồn cảm hứng chính của văn học từ xưa đến nay. Tiếp tục truyền thống văn học dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm, một tác giả nổi bật của văn học kháng chiến chống Mỹ, mang đến những quan điểm mới mẻ về đất nước. Quan điểm đó được ông thể hiện tốt nhất qua đoạn trích Đất nước từ tác phẩm Mặt đường khát vọng.
Mỗi người có một cách hiểu về đất nước khác nhau. Với Nguyễn Khoa Điềm, thông qua sự nhận thức và phân tích logic, ông đã từng bước khám phá khái niệm đất nước từ những điều cụ thể trong cuộc sống hằng ngày.
Khi chúng ta trưởng thành, đất nước đã tồn tại từ lâuĐất nước hiện diện trong những câu chuyện cổ tích mà mẹ thường kểĐất nước bắt đầu từ miếng trầu mà bà đang ănĐất nước trưởng thành khi dân ta biết trồng tre để đánh bại kẻ thù
Theo quan điểm của tác giả, đất nước xuất hiện với hình ảnh đơn giản, từ những câu chuyện cổ tích, từ những miếng trầu, từ truyền thuyết về Thánh Gióng trồng tre đánh tan quân xâm lược Ân. Đất nước chúng ta đã tồn tại từ những ngày đó, gắn bó với mỗi đứa trẻ từ khi còn nhỏ.
Không chỉ được hình thành từ văn hóa và truyền thống của dân tộc, đất nước còn phản ánh qua phong tục, nét đẹp văn hóa của dân tộc. Hình ảnh ‘Tóc mẹ thì bấm sau đầu’ là minh chứng cho nét đẹp văn hóa truyền thống đã được lưu giữ qua hàng nghìn năm. Mặc dù bị phương Bắc ảnh hưởng trong thời gian chiếm đóng, nhưng vẫn không làm mất đi những giá trị văn hóa của dân tộc. Đất nước cũng được hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung, bắt nguồn từ mối quan hệ vợ chồng: ‘Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn’. Nguyễn Khoa Điềm sử dụng câu đố từ ca dao: ‘Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau’ để thể hiện rằng đất nước được hình thành từ những điều giản dị nhưng vô cùng thiêng liêng và cao quý.
Tiếp tục khám phá khái niệm đất nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chia sẻ:
Đất là nơi tôi đi họcNước là nơi tôi tắmĐất nước là nơi chúng ta hẹn hòĐất nước là nơi tôi đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không xa lạ mà chính là không gian sinh tồn, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng tỏ điều này bằng cách không hoa mỹ, mà là thông qua những hình ảnh cụ thể và sinh động như đi học, tắm, hẹn hò, và nhớ thương. Đất nước được hình thành từ những điều đơn giản nhất của cuộc sống. Ông từng dùng lịch sử và địa lý để giải thích khái niệm này: “Đất nước là nơi dân mình tập trung/ Đất là nơi chim quay về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Sinh ra dân tộc ta trong ấm no”. Điều này cũng nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước: “Những ai đã khuất/ Những ai đang sống/ yêu nhau và sinh con đẻ cái/ Đồng lòng xây dựng cho thế hệ sau/ Hằng năm ăn ở, làm việc/ Cũng hãy nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “xây dựng” đã đồng ý trách nhiệm của thế hệ tiếp theo đối với sự phát triển và bảo vệ đất nước. Ông cũng nhắc nhở rằng không được quên công lao của những người tiền bối trong việc xây dựng đất nước. Cả hai từ “nhớ ngày” đã thể hiện lòng kính trọng sâu sắc hướng về tổ quốc, đất tổ.
“Trong chúng ta ngày nay/…/Đất nước vẹn toàn rộng lớn”, đoạn thơ đã khẳng định, Đất nước tồn tại và mạnh mẽ là nhờ vào sự đoàn kết của mọi người, là tình yêu của cả hai giới. Chỉ khi có sự hòa hợp giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cá nhân và toàn thể, thì đất nước mới được bảo toàn và phát triển. Và từ đó, ông nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước: “Em ơi em, đất nước là máu thịt của chúng ta/ Hãy biết yêu thương và chia sẻ/ Hãy ghi công với hình dạng của quê hương/ Xây dựng đất nước bền vững”. Vì:
Những người vợ nhớ chồng còn góp phần cho Đất Nước những ngọn Vọng Phu…Những người dân đã góp công trong việc xây dựng Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Một loạt các địa danh, danh thắng được ông đề cập. Mỗi địa danh đó liên quan đến một chiến công, một sự hy sinh để xây dựng đất nước vững mạnh. Điều này khiến ông rút ra kết luận: “Và khắp nơi, trên ruộng đồng, trên núi sông/…/Cuộc sống đã làm cho đất nước ta”.
Để tạo nên đất nước, không thể chỉ một người có thể định hình được với nền văn hóa, truyền thống và lịch sử dân tộc. Vậy ai là những người đó?
Không ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã góp phần xây dựng Đất Nước
Quả đúng, họ chính là những người vô danh, là những người con gái, con trai, họ “đã sống và chết”, “giản dị và bình tâm”. Họ mang tên làng, tên xã, gìn giữ phong tục, tập quán, truyền thống cho thế hệ sau. Họ là người đã tạo nên Đất nước. Với cách liệt kê và thế mạnh của “họ”, Nguyễn Khoa Điềm đã mô tả một cách sinh động những người vô danh từ thế hệ này sang thế hệ khác, truyền lại cho con cháu những giá trị tinh thần và vật chất. Và điều họ hướng đến là:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dânĐất nước của Nhân Dân, Đất nước của câu chuyện dân gian
Từ đây, Nguyễn Khoa Điềm đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm về đất nước của mình. “Quay trở lại với nguồn cội của Đất Nước cũng là quay trở lại với nguồn gốc văn hóa dân gian phong phú, đẹp đẽ” là nơi bắt đầu của mọi truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Đồng thời, đó cũng là nơi tạo ra và nuôi dưỡng truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc:
Dạy anh biết yêu em từ khi còn nhỏBiết trân trọng những ngày lặn lộiBiết chờ đợi ngày trở thành người lớnĐi trả thù mà không sợ về sau
Bài thơ kết thúc bằng tiếng hát tự hào, vang vọng rộng lớn như âm nhạc của núi rừng. Đồng thời, tiếng hát đó cũng thể hiện lòng tự hào sâu sắc của tác giả với truyền thống văn hóa của tổ tiên.
Đất Nước là một bài thơ sâu sắc, trí tuệ, thể hiện quan điểm độc đáo và mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về quê hương. Với bài thơ này, người đọc được mở mang kiến thức, nhìn nhận lại Đất Nước qua lịch sử. Từ đó, càng yêu quý, tự hào với nơi mình sinh sống.
Phân tích Đất nước – Mẫu 6
Đất nước luôn là đề tài quen thuộc trong văn học và nghệ thuật, là nguồn cảm hứng của nhiều nghệ sĩ. Trong những thời kỳ chiến tranh, tình yêu đối với đất nước trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đoạn trích từ ‘Đất nước’ của Nguyễn Khoa Điềm ra đời trong bối cảnh đó.
Khi nhắc đến văn chương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta biết những nhà thơ trong thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật… họ viết về lòng hào khí của dân tộc:
“Xẻ dọc Trường Sơn, giữa lòng nướcmà lòng dân càng thêm hào khí.”
Một trong những nhà thơ đặc biệt nhất của văn chương Việt Nam thời kỳ đó chắc chắn phải là Nguyễn Khoa Điềm, người đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến mà dân tộc quyết tâm phải thắng lợi.
Nói đến Nguyễn Khoa Điềm, không ai là người yêu văn chương có thể quên được phong cách thơ trữ tình chính trị của ông. Thơ của Nguyễn Khoa Điềm thu hút người đọc bởi sự chất chứa cảm xúc sâu lắng, giàu ý nghĩa, phản ánh tinh thần của những người trí thức tích cực tham gia vào cuộc chiến của nhân dân. Trong số những kiệt tác của ông, đoạn trích từ “Đất nước” thuộc chương V của “Trường ca mặt đường khát vọng” nổi tiếng nhất.
Tác phẩm đã thành công khẳng định tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, là nhân dân đã bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên ba mặt: không gian, lịch sử và văn hóa. Nhà thơ đã đặt ra hàng trăm câu hỏi “Đất nước này là do ai xây dựng? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời?” Để trả lời những câu hỏi đó, Nguyễn Khoa Điềm đi sâu vào tâm trí của mình để tìm kiếm cội nguồn của quốc gia.
Khi nói về vẻ đẹp của quê hương từ chiều sâu văn hóa, chúng ta phải nhận ra rằng văn hóa là bộ mặt tinh thần mà con người tạo ra. Đó có thể là giá trị tinh thần hoặc vật chất. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận rằng người Việt không chỉ bảo vệ đất đai mà còn truyền lại cho nhau những giá trị văn hóa, những nét đẹp của dân tộc qua thế hệ, từ trái tim người già sang lòng người trẻ. Đó chính là vẻ đẹp đậm chất dân tộc của Việt Nam.
Câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” mô tả sự phát triển của quốc gia trong lịch sử, như một sinh vật sống với sức mạnh bản năng. Nghệ thuật liệt kê là cách ông tả lại đất nước gần gũi, bình dị, liên kết với gia đình, làng xóm, là một phần của kí ức của mỗi người.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Đất nước tồn tại trong những câu chuyện “ngày xưa kia…” mẹ thường kể.”
Nhà thơ trở về với quá khứ, đưa chúng ta đến với thế giới cổ tích, nơi chứa đựng những bài học về đạo lý, lòng nhân từ, yêu thương, và sự quan tâm lẫn nhau.
“Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn.”
Tục nhuộm răng, tục nhai trầu của người già là biểu tượng cho vẻ đẹp của người Việt Nam. Đất Nước là văn hóa thấm nhuần từ tâm hồn dân tộc, từ truyền thống ca dao, cổ tích đến tục ngữ, ‘miếng trầu’ luôn hiện hữu như một biểu tượng của tình yêu thương và lòng trung thành của người Việt.
‘Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre để đánh giặc.’
Hình ảnh dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ là biểu tượng cho truyền thống yêu nước mà còn thể hiện sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam trong cuộc chiến giữ nước. Cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh quật cường, niềm tự hào dân tộc.
Suy từ về cội nguồn Đất Nước đã được thể hiện qua những hình ảnh bình dị, thân thuộc, khẳng định rằng Đất Nước gần gũi, bình dị trong đời sống hàng ngày. Ví dụ như ‘Tóc mẹ thì bới sau đầu’ làm cho chúng ta nhớ về các phong tục truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi và sự lao động của cha mẹ. ‘Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn’ là biểu tượng của tình yêu và lòng trung thành của người Việt Nam.
Câu thơ ‘Cái kèo, cái cột thành tên’ nói về việc đặt tên cho con theo tục lệ để dễ nuôi. Thông qua việc liệt kê các bước để sản xuất hạt gạo, tác giả chỉ ra rằng đất nước có nền văn minh lúa nước và bảo vệ giống cây, bản sắc con người Việt.
Nhân dân đã truyền lại vẻ đẹp và văn hóa của đất nước. Tác giả nhận ra rằng Đất Nước có từ rất xa, từ thời kỳ huyền thoại và truyền thuyết, từ khi dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
‘Ngày đó’ không chỉ là một thời điểm trong quá khứ mà còn là biểu tượng cho các hành động và truyền thống của dân tộc, như việc kể chuyện cổ tích, trồng tre đánh giặc, trồng lúa, củ, ăn trầu, búi tóc, sống yêu thương và thủy chung.
Như đã đề cập, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ hiểu biết về địa lý và lịch sử của Việt Nam. Ông đã đi qua mọi vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.
Những người đã đóng góp cho đất nước bao gồm những người vợ nhớ chồng, những núi đóng vai trò, những cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa của Thánh Gióng, chín mươi chín con voi, những con rồng, những người học trò nghèo, con cóc, con gà quê hương, và những người dân đã đặt tên cho các địa danh.
Khi đọc tám câu thơ ban đầu, ta như lạc vào không gian cổ tích kỳ diệu. Các câu thơ như một kho truyện cổ, kể về những sự tích như “núi vọng phu” và “hòn Trống Mái”.
Tác giả hướng dẫn chúng ta quay về làng Phù Đổng nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Mỗi dòng thơ được chia thành hai phần và nối với nhau bằng từ “góp”.
Đoạn thơ có hai phần mô tả tương quan đối lập. Phần đầu nói về nhân dân, cảm xúc mộc mạc, xót thương; phần sau nói về đất nước, lộng lẫy và tinh tế. Đây là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân xây dựng đất nước huy hoàng.
Nguyễn Khoa Điềm đề cập đến những địa danh không tên để nhấn mạnh sự gắn bó, máu mủ và tài hoa của nhân dân. Các địa danh này là kết quả của sự hi sinh bền bỉ của nhân dân.
Tám câu thơ giúp ta thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước, như một bông hoa vàng chói lọi mà tổ quốc trao tặng cho nhân dân – những người đã hi sinh để xây dựng đất nước.
Tám dòng thơ đầu sặc sỡ màu sắc, hình tượng tinh tế, còn bốn câu thơ sau mang dấu ấn của sự suy tư sâu sắc, của lời nói chính luận xen lẫn sự trầm ngâm của một trí thức.
Ta đến với hai câu thơ đầu tiên:
“Nơi nào trên ruộng đồng xa xămKhông hình dáng, không ước mơ, không lối sống của ông cha”
Viết liền mạch, sử dụng lối phủ định để khẳng định mạnh mẽ hi sinh của nhân dân. Câu thơ thứ ba “Ôi, đất nước qua bốn nghìn năm, ta vẫn cảm nhận mọi nơi” thể hiện cảm xúc sâu sắc của tác giả trước sự hi sinh vĩ đại của dân tộc.
Tác giả nhấn mạnh vào chiều dài lịch sử và hi sinh của dân tộc qua cụm từ “bốn nghìn năm”. Kết thúc với câu thơ “Những cuộc đời đã góp phần tạo nên núi sông ta…” thể hiện sự trầm ngâm và đúc kết chân lí. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của lòng người trước những xáo trộn của tâm hồn.
Cuộc sống của con người dù ngắn ngủi, hữu hạn nhưng lại biến thành núi sông ta, gửi gắm những vẻ hùng vĩ không ngừng, vĩnh cửu bất biến. Điều này chứng tỏ sức mạnh kỳ diệu của con người! Họ không chỉ tạo nên hình dạng đất nước mà còn tạo nên tinh thần của đất nước.
Bên cạnh vẻ đẹp của không gian địa lý, đất nước còn phản ánh qua chiều dài của lịch sử. Nguyễn Trãi, một nhà sử học chính thống, một quan nhà Lê, đã ghi lại:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần đã xây dựng nền độc lậpVới Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một nơi”
Ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không tiếp cận lịch sử theo cách truyền thống. Đoạn thơ mang tính lịch sử nhất có lẽ là:
“Em ơi, hãy nhìn xaVề quá khứ bốn nghìn năm của Đất Nước”Mỗi thời đại, mỗi thế hệCon gái, con trai, cùng tuổi với chúng taCần cù làm việcKhi có chiến tranh, con trai ra trậnCon gái ở nhà chăm sóc gia đình”
Nếu Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở. Ông nhấn mạnh vào con số ‘bốn ngàn năm’. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, bốn ngàn thế hệ người Việt Nam cống hiến, cha đi trước, con đi sau, tất cả cùng hành quân. Đó là một cuộc đua không ngừng của dân tộc.
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Họ đã làm nên Đất Nước bằng những công việc hàng ngày và suốt cuộc đời:
“Nhưng họ đã làm nên Đất NướcHọ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi cuộc di dânHọ xây đập, bờ, để người sau trồng cây, hái tráiCó kẻ xâm lược thì họ đều đấu tranh chống lạiKhi có mâu thuẫn bên trong, họ cũng vùng lên đánh bại”
Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã bảo tồn và kế thừa cho thế hệ sau mọi di sản văn hóa, tinh thần và vật chất của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, tên xã, tên làng và truyền thống chống kẻ thù bên ngoài. Đọc đến đây, trong trái tim mỗi người yêu văn chương vang lên những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong ‘Báng súng’:
“Chúng ta viết thơ trên báng súngCon lớn lên viết tiếp con thay chaNgười đứng dậy viết tiếp người ngã xuốngNgày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.
Chính nhân dân đã ghi lại những trang sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Để viết lên trang sử vĩ đại ấy, máu, mồ hôi và nước mắt của nhân dân là không thể thiếu. Nhớ lại hình ảnh anh giải phóng quân trong ‘Dáng đứng Việt Nam’ của Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn NhấtNhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăngVà Anh chết trong khi đang đứng bắnMáu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàngCó thằng sụp xuống chân Anh tránh đạnBởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảmVẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến côngAnh tên gì hỡi Anh yêu quýAnh vẫn đứng lặng im như bức thành đồngNhư đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác MỹMà vẫn một màu bình dị, sáng trongKhông một tấm hình, không một dòng địa chỉAnh chẳng để lại gì cho riêngAnh trước lúc lên đườngChỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.Tên Anh đã thành tên đất nướcÔi anh Giải phóng quân!Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn NhấtTổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”
Không một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những người ấy vẫn sẵn lòng ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở, sẵn lòng ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
Như triết gia người Đức Engels từng nói: “Nếu không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân.
Nhà thơ đã khéo léo áp dụng các yếu tố của ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý nghĩa và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng trở thành một câu thơ, một ý thơ gắn bó trong bài thơ để khẳng định: Con người Việt Nam đắm chìm trong tình yêu.
Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này là sự kết hợp tinh tế giữa yếu tố dân gian và cách diễn đạt hiện đại, tạo ra một vẻ đẹp thẩm mỹ quen thuộc nhưng mới mẻ. Văn hóa, văn học dân gian được khai thác tối đa, tạo ra không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật độc đáo: vừa bình dị, gần gũi, thực tế, vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng mới lạ qua cách cảm nhận và biểu đạt bằng hình thức thơ tự do. Chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.
Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta nhận thấy đặc điểm phong cách thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa luận lý và tình cảm, giữa suy tư và cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, đậm đà hơi thở cuộc sống. Tính luận lý làm sáng tỏ chất trí tuệ hài hòa với tình cảm đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để thêm yêu quý và tự hào về Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử. Ta thấy, dù là về địa lý, lịch sử hay văn hóa, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện vẻ đẹp duyên dáng của văn hóa, văn học dân gian trong tiếng thơ của mình. Sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ với những câu thơ dài ngắn xen kẽ nhau như dòng cảm xúc, dòng suy tư. Xuyên suốt bài thơ, 2 chữ “Đất nước” luôn được viết hoa 1 cách trang trọng, lặp đi lặp lại như 1 nốt nhạc chủ đề trong bản trường ca về non sông đất nước. Nhờ đó, tác phẩm đã thúc đẩy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ có lối viết trường ca, kể lể, liệt kê, khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện, ông xứng đáng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn chương Việt Nam ngày ấy. “Đất nước” cũng xứng đáng là nguồn cảm hứng tinh thần của người yêu văn học về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước và vẫn có giá trị cho đến ngày nay.
Phân tích bài Đất nước – Mẫu 7
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta đã liên tục tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược để bảo vệ nền độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Trong suốt ba mươi năm ấy, vận mệnh của đất nước luôn là vấn đề lớn lao, nóng bỏng và ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của cuộc sống dân tộc và mỗi người Việt Nam. Do đó, tình cảm yêu nước đã trở thành nguồn cảm hứng chính trong thơ ca hiện đại Việt Nam, tiếp nối một truyền thống văn học dân tộc sâu sắc từ xa xưa. Tình yêu nước được thể hiện trong thơ ca ta đa dạng tùy thuộc vào hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng cụ thể của từng nhà thơ. Trong bài Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã miêu tả, cảm nhận vẻ đẹp đa dạng của đất nước, thể hiện ý thức trách nhiệm với vận mệnh dân tộc giữa thử thách lớn của lịch sử.
Hình tượng đất nước, theo cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, liên kết với những nhân vật, hình ảnh cụ thể của cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tình yêu to lớn nhưng không hề xa xôi, trừu tượng mà được khơi nguồn từ những sự vật, hoạt động gần gũi, từ những phong tục văn hóa từ xa xưa. Đất nước hiện diện trong những câu chuyện cổ tích mà mẹ thường kể cho ta từ khi còn bé, trong miếng trầu bà đang ăn, trong hàng tre của làng vốn là hàng rào chống giặc cho dân mình. Đất nước đi kèm với phong tục búi tóc sau đầu, câu ca dao đậm đà, gắn liền với cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương. Cảm nhận về đất nước từ những điều thông thường quen thuộc đã dẫn Nguyễn Khoa Điềm đến việc sử dụng biện pháp nghệ thuật chiết tự. Từ việc chia cắt đất nước thành đôi để nhà thơ có thể định rõ từng phần.
Đất và Nước:
Đất là nơi anh học trườngNước là nơi em tắmĐất là nơi chim phượng hoàng về hòn núi bạcNước là nơi cá ngư ông móng biển khaiĐất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng ở
Dòng suy tưởng đưa Nguyễn Khoa Điềm quay về quá khứ, với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ xác nhận nguồn gốc thống nhất của con người Việt. Đất nước tồn tại qua hàng ngàn năm, trong không gian rộng lớn. Những hình ảnh, sự vật trên có vẻ bình thường nhưng không hề tầm thường; trong đó chứa đựng sâu xa chiều dài lịch sử, truyền thống văn hóa với những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Gợi lên truyền thống lịch sử – văn hóa vững bền, không gian địa lý mênh mông của đất nước từ những điều đơn giản, hàng ngày, đó là thành công đặc biệt của Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích này. Đất nước là cuộc sống, là hơi thở hàng ngày của mỗi chúng ta. Đất nước là sông bể rộng lớn, núi rừng hùng vĩ. Đất nước trải dài qua hàng ngàn năm lịch sử từ truyền thuyết Hùng Vương đến phong tục Hàng năm ăn đâu làm đâu – Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Từ khi nào con người Việt Nam biết kể chuyện cổ tích, có phong tục ăn trầu… Từ khi nào con người Việt Nam trở thành bạn thân với cây tre, với cái kèo, cái cột… Đằng sau những điều đơn giản đó là truyền thống lịch sử – văn hóa lâu đời, bền vững của đất nước Việt Nam. Từ góc độ cuộc sống cá nhân, nhà thơ truyền đạt cả cuộc sống cộng đồng, mang lại cho người đọc cái nhìn tổng thể, toàn diện về vẻ đẹp của đất nước.
Tạo nên truyền thống lịch sử – văn hóa độc đáo, bền vững của đất nước chính là nhờ vào nỗ lực của hàng thế hệ nhân dân. Do đó, lòng yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này liên kết chặt chẽ với lòng yêu nhân dân, với niềm tự hào về vai trò quan trọng của nhân dân. Đất Nước của Nhân dân đã trở thành một tư tưởng nổi bật, lan tỏa suốt đoạn trích Đất Nước này và chính cách cảm nhận đất nước từ những điều bình dị, gần gũi như trên sẽ dẫn đến tư tưởng đó một cách tự nhiên.
Chắc chắn chưa bao giờ như trong thời kỳ dân tộc Việt Nam chống Mỹ, vai trò lớn lao, sức mạnh vô song của nhân dân được thể hiện một cách toàn diện như vậy. Cuộc chiến đấu gay gắt với một kẻ thù giàu có và tàn bạo đến cùng đòi hỏi phải huy động toàn bộ sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân. Bởi vậy, Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng chung của thời đại, đã chi phối toàn bộ nền văn học cách mạng và tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị. Trong bối cảnh đó, đoạn trích Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một cách cảm nhận, cách thể hiện đặc sắc. Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không nhấn mạnh các triều đại, những anh hùng nổi tiếng mà tự hào nhắc đến vô số lớp người vô danh bình dị. Mọi thời kỳ, mọi người dân từng bước:
Con gái, con trai cùng tuổi với chúng taCần cù làm việcKhi có kẻ thù, con trai ra chiến trậnCon gái trở về chăm sóc con và ru con ngủ
Với nhân dân, làm việc cần cù và chiến đấu vì đất nước, sống và chết đều thật giản dị và bình tĩnh vì lẽ sống còn của đất nước. Khi đất nước yên bình, họ ‘im lặng làm việc, lo lắng về nghèo đói’. Khi đất nước gặp nguy hiểm, họ đứng dậy cầm vũ khí, sẵn sàng hi sinh vì độc lập, chủ quyền như một điều hiển nhiên. Chính những người không ai biết tên đã tạo ra Đất nước. Trong các giai đoạn lịch sử, nhân dân là lực lượng chính tạo ra, bảo vệ mọi tài sản vật chất, mọi giá trị tinh thần để xây dựng nên Đất nước muôn đời:
Họ truyền lại cho chúng ta hạt lúa mà họ gieoHọ chuyển lửa từ người này qua người khác từ thế hệ này sang thế hệ khácHọ truyền giọng điệu của mình cho con em học theoHọ đem theo tên xã, tên làng mỗi khi di dân
Những người đi trước, những anh hùng vô danh đã hy sinh im lặng để đảm bảo sự vững chắc của đất nước đến ngày nay. Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận sự hiện diện của nhân dân trên diện mạo của đất nước. Không ít tác phẩm văn học đã kể về những địa danh nổi tiếng, những câu chuyện truyền thống của đất nước Việt Nam qua bốn ngàn năm văn hiến. Nhưng khi kết hợp chúng với số phận, với phẩm chất của những người dân bình dị, ta nhận thấy cuộc sống hi sinh cao đẹp của quần chúng nhân dân, và đó chính là điều Nguyễn Khoa Điềm muốn truyền đạt. Sau khi nhắc đến hàng loạt địa danh nổi tiếng, câu chuyện truyền thống trên khắp đất nước, nhà thơ đi đến một kết luận sâu sắc:
Và trên mọi nẻo đường, khắp ruộng đồngKhông hình bóng, không ước mơ, không lối sống của tổ tiênÔi Đất Nước sau bao năm vẫn hiện hữu trong chúng ta
Làm rõ tư tưởng về Đất Nước của nhân dân từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh như thế, đoạn trích đã đem lại niềm tin vào sự tồn tại của đất nước. Đất Nước là của nhân dân, và nhân dân thì rộng lớn, vĩ đại và bất tử. Vì thế, Đất Nước này sẽ mãi tồn tại cùng với nhân dân. Nhìn nhận Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của truyền thống qua góc độ thế hệ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc trách nhiệm đối với tương lai của đất nước. Có lẽ đây chính là mục tiêu của bài thơ Đất Nước này khi ra đời giữa những năm tháng chiến tranh gay gắt, lịch sử đang yêu cầu mọi người phải đoàn kết vì quê hương. Ý thức trách nhiệm này được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận, dẫn dắt một cách tự nhiên trong quá trình khám phá sâu hơn về đất nước. Ban đầu, đất nước là những gì quen thuộc bên ngoài chúng ta, xung quanh chúng ta. Nhưng dần dần, đất nước đã trở thành một phần của chúng ta, đất nước hiện diện trong mỗi người chúng ta:
Trong tôi và bạn ngày nayCả hai đều mang một phần của Đất NướcKhi đôi ta nắm chặt tay nhauĐất Nước trong chúng ta hòa mình, phồn thắmKhi chúng ta đoàn kết cùng mọi ngườiĐất Nước trọn vẹn, vĩ đại
Mỗi con người ngày nay đều thừa hưởng những di sản vật chất và tinh thần quý báu từ đất nước, từ nhân dân, từ các thế hệ đi trước, vì thế phải biết hy sinh cho sự tồn vong của đất nước. Ý thức trách nhiệm này được nhà thơ trình bày một cách chân thành. Đó là lời kêu gọi từ đáy lòng đang xúc động:
Em ơi, Đất Nước là máu xương của taPhải biết gắn bó và chia sẻPhải biết hiện diện trong hình ảnh của quê hươngLàm nên Đất Nước vĩnh viễn…
Như vậy, sức hút của chương Đất nước không chỉ ở các khía cạnh cảm nhận mà còn ở cách thể hiện của Nguyễn Khoa Điềm. Khi mang vào nhiều tri thức về lịch sử, địa lí, văn hóa dân gian, thơ không chỉ đơn giản là diễn đạt mà còn là kỹ năng làm cho người đọc hiểu một cách sâu sắc mà không kém phần sâu lắng.
Khi ta trưởng thành Đất Nước đã tồn tạiĐất Nước sống trong những câu chuyện ‘ngày xưa kể lại…’ mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà bà đang nhaiĐất Nước trưởng thành khi dân ta biết trồng tre để chống giặc
Đầu tiên, Đất nước đưa ta vào một câu chuyện sâu lắng, đầy tình cảm. Toàn bộ chương này được thể hiện qua hình thức ‘anh’ và ’em’ trò chuyện. Với cách diễn đạt này, giọng điệu thơ phải ngọt ngào, dịu dàng. Nguyễn Khoa Điềm nói về lịch sử như một lời tâm sự về tuổi thơ, như một lời nhắc nhở về những kỷ niệm cảm động với người thân trong gia đình như bà, như mẹ. Bạn bè của lịch sử, của văn hóa đậm đà, lâu đời, cũng như không khí của các truyền thuyết như Thánh Gióng, Trầu Cau bỗng trở nên sống động trong cảm nhận gần gũi của mỗi độc giả. Chính nhờ cách thể hiện đó, vẻ đẹp sâu thẳm của đất nước, ý thức trách nhiệm công dân trước vận mệnh đất nước được độc giả cảm nhận một cách tự nhiên, sâu lắng.
Tiếp nối dòng thơ yêu nước trong văn học dân tộc, Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang lại những cảm nhận đầy sáng tạo cùng cách thể hiện độc đáo. Sự thành công của đoạn trích Đất nước này chứng minh cho sức sáng tạo, khả năng phát triển của một nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ.
Đất nước phân tích – Mẫu 8
Đất nước – hai từ linh thiêng ấy vẫn ngân nga trong lòng chúng ta, vừa cao thượng, trang nghiêm; vừa gần gũi, mềm mại. Hình ảnh Đất Nước đã truyền cảm hứng cho nhiều tâm hồn thơ bay bổng. Trong ‘Mặt đường khát vọng’ của Nguyễn Khoa Điềm, điều này càng trở nên đầy đặn hơn khi nắm vững cội nguồn và tư tưởng đất nước của nhân dân.
Giản dị như tự nhiên, bài thơ khởi đầu với niềm khao khát hiểu biết về đất nước từ xưa:
“Khi ta trưởng thành Đất Nước đã cóĐất Nước sống trong những câu chuyện ‘ngày xưa kể lại…’ mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu từ miếng trầu bà đang nhaiĐất Nước phát triển khi dân ta biết trồng tre để chống giặcTóc mẹ bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó…”
Xưa kia, đất nước kết nối với những truyền thuyết, huyền thoại, với những đế chế vĩ đại. Ngày nay, Nguyễn Khoa Điềm quay trở lại trong sự thân thuộc, gần gũi. Có cái xa xôi của lịch sử nhưng gần gũi với ký ức tuổi thơ. Đó là ‘ngày xưa kể lại…’ mẹ thường kể cho con nghe; sự ấm áp của những hình ảnh dưới mái nhà Việt, với ‘miếng trầu’ đỏ thắm bà ăn, cây tre ngàn đời chống giặc và tình cha mẹ dày đặc. ‘Cội nguồn’ không gì khác là gia đình thân quen, ấm cúng.
Những câu thơ dịu dàng, ấm áp, bay bổng trong đời và hòa quện trong ca dao, cổ tích để tạo nên không khí êm đềm. Đó là câu chuyện truyền thuyết trầu cau ‘Miếng trầu nên dâu nhà người’, là câu chuyện về cậu bé làng Gióng lên ba tuổi nhổ tre chống giặc, là lời ca dao ‘Muối gừng’ ân nghĩa thủy chung. Đất nước hiện ra lấp lánh, bay bổng và quyến rũ dưới con mắt nhạy bén của Nguyễn Khoa Điềm.Đất Nước cũng là chiều rộng vô tận của địa lý – cái nhìn này có lẽ không mới mẻ.
Ngày xưa, Nguyễn Đình Thi viết:
“Việt Nam đất nước ta ơiMênh mông biển lúa trời đẹp hơn.”
Đó là một không gian vô biên, vô cùng, cao vút mang dáng vẻ của một sử thi lộng lẫy. Với Nguyễn Khoa Điềm:
“Đất là nơi anh đi họcNước là nơi em tắm mátĐất Nước là nơi ta hẹn hòĐất Nước là nơi em vô tình đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “chim phượng bay qua núi bạc”Nước là nơi “cá ngư ông móng nước biển khơi”Thời gian bao laKhông gian mênh môngĐất Nước là nơi tình thương của chúng taĐất là nơi chim tự doNước là nơi rồng vĩ đại”
Đất nước là “nơi anh đi học” – cuộc sống học tập, “nơi em tắm mát” – cuộc sống sinh hoạt và góc đời thiếu nữ, là “nơi ta hẹn hò” – thắp lửa tình yêu, “nơi em vô tình đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – ghi dấu kỉ niệm con người. Đó cũng là một không gian giàu có, trù phú, bao la, đẹp và rộng: “Chim phượng bay qua núi bạc – Cá ngư ông móng nước ngoài khơi”. Nó gần với con người lắm, chiếc khăn ấy là lời hát tha thiết trong đêm tương tư “Khăn thương nhớ ai – Khăn rơi xuống đất”, gắn với lời hát điệu hò của câu huê tình xứ Bình Trị Thiên tự buổi nào.
Đất nước cũng là dấu vết của quãng thời gian lịch sử dài lâu:
“Lạc Long Quân và Âu CơĐã sinh ra dân tộc ta trong lòng đất mẹ”Những ai đã ra điNhững ai hiện tạiYêu nhau và góp phần sinh con đẻ cáiMang trách nhiệm của những người tiền bối để lạiDặn dò con cháu về những điều phải làm cho tương laiHàng năm, nơi đâu, công việc gìCũng nhớ đến ngày giỗ Tổ quốc.”
4000 năm lịch sử đã trở thành thánh thiêng với những trang sử hào hùng của tổ tiên:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần qua bao thế hệ dấn thân cho độc lập.”
(Trích Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Nối tiếp:
“Đất nước qua bốn nghìn nămĐã trải qua nhiều gian khổ và khó khănĐất nước tựa như ngôi saoLuôn tiến lên phía trước.”
(Mùa xuân nhỏ bé – Thanh Hải)
Sau này, Chế Lan Viên đã viết:
“Hỡi dòng sông Hồng vang lên hát mãi bốn nghìn năm!Tổ quốc có lúc nào đẹp như thế này chưa?– Chưa bao giờ! Ngay cả trong những ngày tuyệt vời nhấtKhi Nguyễn Trãi sáng tác và đánh giặc,Nguyễn Du viết nên Kiều, đất nước trở thành văn chương,Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa phía Bắc.Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”
Đến Nguyễn Khoa Điềm, thời gian trôi đều và không gian vô hạn. Đó là truyền thuyết về bọc trứng, nơi chim trở về, rồng cư ngụ, và ngày giỗ Tổ thiêng liêng. Đó là hiện thực của trí tưởng tượng bay bổng, đẹp mơ mộng, hòa quyện và mĩ lệ, mà dường như trước và sau Nguyễn Khoa Điềm, chưa ai nói được như thế.
Đất nước cũng đọng sâu trong cuộc sống riêng tư của con người:
“Hôm nay, trong ta và emMỗi đứa đều có một phần Đất NướcKhi ta và em nắm tay nhauĐất Nước trong ta hài hòa nồng thắmKhi ta và em nắm tay mọi ngườiĐất Nước hoàn hảo, vĩ đạiKhi con lớn lên và đi xaCon sẽ mang theo Đất NướcTrong những giấc mơ tươi sángEm ơi, Đất Nước là máu thịt của chúng taChúng ta phải gắn bó và chia sẻChúng ta phải trở thành hình ảnh của xứ sởTạo dựng Đất Nước muôn đời…”
Khi chúng ta “nắm tay” nhau, Đất Nước trở nên “hài hòa nồng thắm”, khi chúng ta “nắm tay” mọi người, Đất Nước trở nên “hoàn hảo, vĩ đại”. Đất Nước gói gọn tình yêu của cặp đôi, tinh thần đoàn kết dân tộc và còn là “nền móng của tình yêu sâu đậm”, Đất Nước là “máu thịt” của chúng ta. Đất Nước được nhìn nhận từ cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng tới bề sâu, từ thực tế đến tưởng tượng. Một cách tự nhiên, kỹ lưỡng và đầy tình cảm.
Tiếp đó là triết lý Đất Nước của nhân dân. Một chuỗi câu thơ tự do mở ra với biên độ thơ mở rộng. Nhịp thơ chậm lại, mang cảm xúc của cuộc trò chuyện. Nghệ thuật sắp xếp và tái cấu trúc cấu trúc thơ nhấn mạnh ý thơ và mạch thơ liên kết một cách liền mạch.
Lời thơ, giọng thơ sôi nổi, tình cảm và đầy nhiệt huyết, khẳng định sự đóng góp của nhân dân trong việc xây dựng đất nước. Núi Vọng Phu – nơi ghi nhận sự chờ đợi kiên trì của mọi người giữa bầu trời. Đó là núi bút non được tạo lập bởi lòng yêu sách của những năm tháng học hành miệt mài và những địa danh quen thuộc như “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, tự hào trong lời khen ngợi về vẻ đẹp của đất nước, “non kỳ thủy tú”. Con người và bảo vật đã hòa nhập vào cảnh vật tự nhiên, và với tác giả, đó là sự tôn trọng trước sự cống hiến to lớn của nhân dân, xây dựng “hình sông thế núi”.
Khẳng định đất nước là của nhân dân và là lời kêu gọi tình yêu đất nước, làm tỉnh thức lòng tự hào và tinh thần dân tộc trong từng cá nhân. “Em ơi em” là lời gọi ngọt ngào, chân thành, trìu mến, đầy ý thức về tâm tình. Đây không chỉ là những lời nói về những vấn đề quan trọng mà còn chứa đựng sự chân thành. Nhân dân là ai? Là những người “con gái, con trai” cùng trưởng thành với chúng ta, những người đã chiến đấu, những người ở lại, có những anh hùng mà “anh và em đều nhớ” nhưng cũng có những anh hùng vô danh mà “Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã làm nên đất nước”. “Họ đã sống và chết – Đơn giản và thanh thản”, như một dòng thơ tận cùng lòng trung thành với nhân dân, dân tộc.
Suốt bốn nghìn năm lịch sử, nhân dân ta đã truyền lại giống lúa, lửa, và tiếng nói, cùng với tên của các xã, các làng, những công trình xây dựng chống lại kẻ thù ngoại xâm. Các giá trị vật chất luôn đồng hành cùng văn hóa tinh thần, với tinh thần yêu nước và tinh thần hiến dâng. Câu thơ nhắc nhở về: tiểu đội xe không kính, những cô gái mở đường, anh giải phóng quân:
“Em là cô gái hay nàng tiên?Em có tuổi hay không có tuổi?”
Hoặc:
“Hoan hô anh giải phóng quânKính chào Anh, người anh hùng tuyệt vời nhất!”
Tác giả đã lựa chọn nguồn tư liệu văn hóa dân tộc từ ca dao, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ. Điều này rõ ràng thể hiện bức tranh tinh thần của nhân dân. Tâm hồn dân tộc được truyền bá qua dân ca đã trở thành một phần sâu sắc của văn hóa. Từ chiều dài, chiều rộng đến chiều sâu, vai trò của nhân dân không chỉ là xây dựng mà còn là bảo vệ. Do đó, “Đất Nước này là của nhân dân”.“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm âm nhạc dân gian thấm nhuần tinh thần kháng chiến, là lời kêu gọi tình yêu nước dành cho mỗi thế hệ người Việt Nam hôm nay và ngày mai.
……………
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích Đất nước Nguyễn Khoa Điềm
Nguồn: https://truongnguyentatthanh.edu.vn
Danh mục: Blog
Ý kiến bạn đọc (0)