Blog

Khám phá vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang

10
Khám phá vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang

Cùng tìm hiểu hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận để khám phá bức tranh sông nước vô cùng mênh mông nhưng u buồn, đầy rẫy cảm xúc. Đồng thời, qua việc phân tích hình ảnh thiên nhiên, bạn sẽ cảm nhận được những suy tư sâu thẳm của tác giả gửi gắm qua bức tranh tự nhiên ấy.

Đề bài: Hãy Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang để hiểu thêm về phong cách văn xuôi kết hợp giữa cổ điển và hiện đại trong việc mô tả cảnh thiên nhiên của Huy Cận.

Mục Lục:1. Tóm tắt nội dung2. Phân tích chi tiết bài thơ3. Ví dụ số 14. Ví dụ số 2

Khám phá vẻ đẹp tự nhiên trong bài thơ Tràng giang

Bí quyết: Phương pháp phân tích bài thơ, đoạn thơ để đạt điểm cao

I. Tóm tắt Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang (Tiêu chuẩn)

1. Giới thiệu

– Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ ‘Tràng giang’ cùng tóm tắt về cảnh thiên nhiên trong bài.

2. Phần chính

a. Phần đầu: Khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông- Bắt đầu với lời đề ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài’ tạo cảm giác của không gian vô hạn, lớn lao của vũ trụ.- Mô tả sự diệu kỳ của dòng sông, với những con sóng ‘điệp điệp’ không ngừng lăn tăn, tạo nên một bức tranh sống động.- Hình ảnh con thuyền nhỏ lênh đênh trên sóng nước, mang theo nỗi buồn sâu sắc của sự chia ly.- Câu cuối cùng với hình ảnh ‘củi một cành khô lạc mấy dòng’ khiến bức tranh thiên nhiên trở nên u sầu và lạnh lẽo hơn.+ Hình ảnh cành củi khô nhỏ bé trôi nổi giữa dòng chảy mênh mông là biểu tượng cho sự lẻ loi, cô đơn.

b. Phần hai: Cảnh thiên nhiên hoang vắng đến tận đáy lòng- Sử dụng từ ngữ như ‘lơ thơ’, ‘đìu hiu’ để nhấn mạnh tâm trạng buồn thương của con người.- Mô tả sự hoang vắng của thiên nhiên, với không gian bao la nhưng lại thưa thớt, mênh mông nhưng cô đơn.- Không có dấu vết của cuộc sống, chỉ có sự bao la và mênh mông của thiên nhiên khi ‘nắng xuống, trời lên’.- Hình ảnh ‘Sông dài trời rộng’ kết hợp với ‘bến cô liêu’ tạo nên cảnh thiên nhiên hoang vắng và cảm giác cô đơn đến tận cùng trong lòng con người.

c. Phần 3: Thiên nhiên buồn bã, hiu quạnh- Trên dòng sông tràng giang sóng nước mênh mang, không một chuyến đò ngang nào qua lại.- Chỉ vài chiếc bèo nhẹ nhàng trôi nổi.- Sự hoang vắng không chỉ từ thiên nhiên mà còn từ tâm hồn của nhà thơ.- Sử dụng từ ngữ như “mênh mông”, “lặng lẽ” kết hợp với “không” và cụm từ “không một chuyến đò”, “không cầu” tăng thêm sự buồn bã, cô đơn đến tận cùng.

d. Phần cuối: Khung cảnh hùng vĩ, bao la cùng nỗi sầu nhân thế.

– Những đám mây trắng lơ lửng, chuyển động nhẹ nhàng thành từng tầng.- Những chú chim nhỏ bé mệt mỏi bay về sau một ngày dài.- Trên bóng hoàng hôn, những hình ảnh đó tạo nên một cảnh tượng buồn bã.- Nhà thơ bỗng nhớ về quê hương, về một thời đại đã qua, thể hiện nỗi lòng của cả một thế hệ trí thức trước những biến động của thời đại.

c. Đánh giá về nghệ thuật- 4 khổ thơ ngắn gọn nhưng tinh tế, sử dụng bút pháp chấm phá độc đáo, kết hợp giữa hiện đại và cổ điển một cách hài hòa.- Khung cảnh không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương của nhà thơ mà còn truyền đạt nỗi lòng của cả một thế hệ trí thức.

3. Kết luận

– Xác nhận giá trị của tác phẩm và vị trí của nó trong văn học.

II. Mẫu bài văn Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang

1. Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang, mẫu số 1 (Chuẩn)

Thiên nhiên luôn là một đề tài phổ biến trong thi ca, là nguồn cảm hứng sáng tạo của nhiều nhà thơ. Mỗi tác giả có cái nhìn riêng, phong cách độc đáo để tái hiện vẻ đẹp của thiên nhiên. Trái với vẻ đẹp mơn mởn, tràn đầy sức sống trong thơ của Xuân Diệu, thiên nhiên trong thơ của Huy Cận lại mang lại nhiều suy tư với vẻ đẹp buồn bã. Điều này được thể hiện rõ qua cách mô tả thiên nhiên trong bài thơ ‘Tràng giang’. Thiên nhiên trong ‘Tràng giang’ dưới ngòi bút của Huy Cận xuất hiện với vẻ đẹp kết hợp giữa cổ điển và hiện đại, đẹp nhưng u buồn và cô đơn, mang theo những nỗi buồn bất tận.

Mở đầu bức tranh thiên nhiên bằng lời đề ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài’. 7 chữ ngắn gọn không chỉ diễn đạt cảm xúc và tình huống sáng tác mà còn hướng dẫn độc giả bước vào không gian thiên nhiên rộng lớn như vũ trụ. Từ đó, khám phá dòng cảm xúc với nỗi nhớ đầy lẫy, sự lạc lõng, hoang mang giữa cảnh thiên nhiên bát ngát, vô tận của một tâm hồn nhạy cảm, lẻ loi:

‘Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song.Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng.’

Sử dụng những yếu tố và kỹ thuật nghệ thuật đã quen thuộc nhưng Huy Cận đã tạo ra một bức tranh thiên nhiên vô cùng ấn tượng. Giữa dòng sông rộng lớn, bao la, mênh mông, từng con sóng gợn lăn tăn, gối đầu lên nhau ‘điệp điệp’ như không ngừng. Dòng nước êm đềm trôi, chậm rãi nhưng hời hợt, không rõ ràng. Theo dòng nước là một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh ‘xuôi mái song song’ mất hướng, dường như đánh mất ý muốn của trời đất.

Phân tích cảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang để thấy được bức tranh sông nước khi hoàng hôn buông xuống.

Thuyền và nước, hai đối tượng thường đi cùng nhau, nhưng ở đây lại cách xa nhau đầy bi ai. Hình ảnh ‘thuyền về nước lại’ gợi cảm giác buồn thương và chia lìa, mang theo hơi thở của nỗi đau vây bủa. Kết hợp với hình ảnh ‘củi một cành khô lạc mấy dòng’, khung cảnh thiên nhiên ban đầu buồn man mác bỗng trở nên càng đắng cay hơn. Cành củi khô nhỏ bé nổi trôi, không định hình, lẻ loi hơn nhiều khi chỉ có một mình giữa những dòng chảy mênh mông, cuộn xoáy. Nó dường như mất hết sức sống, mất đi toàn bộ vẻ xanh tươi, nhỏ nhoi giữa không gian sông nước bao la, làm sâu thêm nỗi cô đơn trống rỗng trong lòng con người. Đồng thời, đây là hình ảnh ẩn dụ hiện đại, biểu tượng cho số phận của con người nhỏ bé trong thời đại ấy, lạc lõng, cô đơn, lẻ loi trôi dạt giữa dòng sông cuộc đời bao la mà không thấy bến bờ.

Dòng cảm xúc lặng lẽ trôi chảy, bút tài của Huy Cận tiếp tục mô tả cảnh thiên nhiên hoang vắng đến nao lòng:

‘Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.’

Hai từ ‘lơ thơ’, ‘đìu hiu’ được sử dụng khéo léo kết hợp với biện pháp tu từ nhân hóa nhấn mạnh tâm trạng buồn thương của con người. Dù vẫn là sông nước mênh mông, vẫn là không gian rộng lớn bao la, nhưng chỉ còn vài cồn cát, vài cơn gió lạ. Ngay cả âm thanh của cuộc sống ‘tiếng làng xa vãn chợ chiều’ dường như cũng biến mất, không biết ‘đâu’. Thi sĩ càng chạm vào hơi thở mong manh của cuộc sống càng cảm thấy bâng khuâng, cô đơn giữa cảnh thiên nhiên bao la, mênh mông bây giờ trở nên mênh mang, vô định hơn bởi ‘nắng xuống, trời lên’.

Hình ảnh “Trời rộng sông dài” từ lời đề đã được đảo ngược thành tiểu đề “Sông dài trời rộng”. Kết hợp với cụm từ “bến cô liêu”, nó khiến người đọc cảm nhận được tận cùng của thiên nhiên hoang vắng và nỗi cô đơn của con người.

Chưa dừng lại ở đó, bức tranh thiên nhiên buồn bã, hiu quạnh tiếp tục được mô tả thêm ở khổ thơ tiếp theo:

‘Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng’

Trên dòng tràng giang mênh mông sóng nước, một chuyến đò ngang chưa từng xuất hiện, chỉ có vài cánh bèo lặng lờ trôi. Sự quạnh hiu đã thấm qua từng cảnh vật. Nó không chỉ là sự hoang vắng của thiên nhiên mà còn là sự cô đơn toát lên từ chính tâm hồn của thi sĩ như câu thơ ‘Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du). Những từ láy “mênh mông”, “lặng lẽ” kết hợp cùng điệp từ “không” và cụm từ “không một chuyến đò”, “không cầu” đã đẩy sự hoang vắng lên đến cực điểm, đưa độc giả đến tận cùng nỗi cô đơn, lạc lõng. Cuối cùng chỉ còn “Bờ xanh tiếp bãi vàng” mênh mông để hút tầm mắt.

Nét cuối cùng cho bức tranh ấy là khung cảnh hùng vĩ, bao la cùng nỗi sầu nhân thế bâng khuâng:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Mây trắng chuyển động thành từng lớp. Cánh chim nhỏ nhoi chao nghiêng bay về sau một ngày mệt nhọc. Trong bóng hoàng hôn, những hình ảnh ấy tạo nên một khung cảnh buồn vương vấn. Không gian rộng mở rợn ngợp còn nỗi buồn thì dằng dặc, bất tận. Nhà thơ chợt nhớ về quê hương, nhớ về cả thời đại. Đây chính là nỗi lòng của cả thế hệ trí thức lúc ấy trước thời cuộc rối ren.

Chỉ với 4 khổ thơ 7 chữ ngắn gọn nhưng bằng những nét bút tinh tế, khéo léo cùng bút pháp chấm phá đặc sắc, Huy Cận đã vẽ lên trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên vô cùng rung động: mênh mông vô tận và man mác nỗi buồn. Khung cảnh ấy không những thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước tha thiết của nhà thơ mà còn gửi gắm nỗi niềm tâm sự của cả thế hệ trí thức trong hoàn cảnh đất nước nhiều biến động.

Với ý nghĩa đó, ‘Tràng giang’ được đánh giá là bài thơ tiêu biểu cho phong cách của Huy Cận. Nỗi “buồn” vô tận kết hợp với nỗi ám ảnh không gian lạ lùng đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng hồn thơ của Huy Cận trong phong trào thơ Mới 1932-1945 cũng như trong văn học Việt Nam. Đó là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, đáng được trân trọng và bảo tồn.

“””—HẾT BÀI 1″”””-

Chương trình Ngữ văn lớp 11 tập trung rất nhiều tác phẩm hay của văn học Việt Nam, bên cạnh bài thơ Tràng giang, các em có thể tìm hiểu thêm về các tác phẩm khác như Vội vàng, Đây thôn Vĩ Dạ, và Chiều tối.

2. Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang, mẫu số 2:

Khi nhắc đến phong trào Thơ mới, không ai có thể quên Huy Cận. ‘Tràng giang’ là một trong những bài thơ nổi tiếng được trích từ tập thơ ‘Lửa thiêng’ của ông, viết vào thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi tâm trạng u sầu, nỗi buồn sâu thẳm trong lòng người mà còn vẽ đẹp hình ảnh của thiên nhiên đầy buồn bã.

‘Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song.Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng.’

Trong dòng sông rộng lớn, dài vô tận, mỗi con sóng gợn cuộn trào, mênh mang, buồn bã. Dòng nước chảy lững lờ, chậm rãi, mơ hồ, không rõ ràng. Chiếc thuyền nhỏ lẻn đênh theo dòng nước như một phần tự nhiên, theo ý muốn của thiên nhiên. Dường như thế giới vẫn lặng yên, dòng sông vẫn bao la, mênh mông, trữ tụng thời gian.

‘Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng’

Những cành củi nhỏ bé lênh đênh giữa dòng nước cuốn, lạc lối đơn độc giữa dòng sông rộng mênh mông. Nhành củi khô dường như mất đi sức sống, vẻ tươi xanh vốn có, tạo nên một hình ảnh cô đơn, nhỏ nhoi giữa không gian sông nước bao la, rợn ngợp tăng thêm nỗi cô đơn trống trải trong lòng người.

Bài phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Giữa vũ trụ rộng lớn mà thiên nhiên ban tặng, vẫn hiện lên cảnh hoang vắng, vắng lặng, lạnh lẽo:

‘Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu’.

Một khung cảnh huyền diệu hiện lên, khắp nơi đều tràn ngập vẻ lạnh lẽo, hoang tàn. Tiếng vang xa của làng quê khiến cảnh vật trở nên buồn thảm hơn, không gì có thể xóa tan đi sự yên bình của thiên nhiên. Dù có sóng, có nắng, có đất trời, nhưng mọi thứ dường như đang chậm rãi chuyển động trong dòng thời gian. Không gian ngập tràn bản sắc mênh mông nhưng con người lại vụt mất, cô đơn và buồn thảm như ‘bến cô liêu’.

‘Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.’

Từ khung cảnh rộng lớn, tác giả chìm đắm trong sự chi tiết của thiên nhiên, hy vọng tìm thấy một chút niềm vui nhỏ, nhưng ngược lại, mọi thứ trở nên buồn thảm hơn, khiến anh ta khắc khoải, nhấn mạnh vào sự lênh đênh của những hàng bèo trôi, không điểm đến giữa dòng nước bao la. Chúng trở thành biểu tượng cho những cuộc sống lênh đênh, không mục tiêu, mất phương hướng giữa đại dương cuộc sống. Bờ xanh kề bên bãi cát vàng, nhưng ẩn chứa nỗi buồn sâu lắng, không thấy dấu vết của con người qua những chuyến đò ngang. Cuối cùng, vẫn là thiên nhiên với thiên nhiên, vẫn là ta với đất trời rộng lớn, trong vũ trụ bao la của nỗi buồn nhân thế.

‘Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.’

Đám mây cuộn tròn theo từng lớp, tô điểm cho bầu trời xanh ngát. Những chú chim nhỏ xuống dòng sông, hòa mình vào không gian yên bình khi hoàng hôn buông xuống. Tất cả tạo nên một khung cảnh buồn lạnh. Không gian vô tận, nỗi buồn không biên giới, dày đặc.

Thiên nhiên, dù đẹp đẽ, hùng vĩ, nhưng luôn ẩn chứa nỗi buồn lặng lẽ. Có lẽ vì được ánh sáng soi vào tâm hồn của thi sĩ, nơi đây chứa đựng nhiều nỗi niềm với cuộc sống, với con người. ‘Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’. Với nét vẽ tinh tế, bút pháp độc đáo, kết hợp giữa vẻ đẹp hiện đại và cổ điển, Huy Cận đã tạo ra một bức tranh thiên nhiên đặc biệt. Chỉ khi yêu thiên nhiên, yêu quê hương, anh mới có thể sáng tạo ra những bài thơ đầy cảm xúc, gợi nhớ như thế.

3. Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang, mẫu số 3:

Khi nói về phong trào Thơ mới, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã có nhận xét rất đặc sắc: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất đi bề rộng, ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu, ta càng cảm thấy lạnh lẽo. Ta phiêu lưu trong thế giới tinh thần cùng Thế Lữ, với Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm chìm cùng Xuân Diệu. Nhưng thế giới tinh thần đã khép kín, tình yêu không bền vững, sự điên cuồng dần phai nhạt, đắm chìm vẫn còn nỗi lạc lõng. Ta trở lại với bản thân, cùng với Huy Cận, mang theo nỗi buồn ngẩn ngơ.”. Có thể thấy rằng mọi nỗi buồn của phong trào Thơ mới đều tập trung vào Huy Cận, và một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất điều này chính là ‘Tràng giang’ – một tác phẩm với phong cảnh thiên nhiên chân thực, đong đầy nỗi buồn mênh mông, vô hạn của nhà thơ.

Huy Cận (1919-2005), tên thật là Cù Huy Cận, quê quán tại làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông say mê thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng sâu rộng từ văn học Pháp, tạo nên những tác phẩm thơ sâu sắc với triết lý suy tưởng. Các tập thơ đáng chú ý của ông bao gồm: ‘Lửa thiêng’, ‘Vũ trụ ca’, ‘Trời mỗi ngày lại sáng’.

‘Tràng giang’ thuộc tập thơ đầu tay ‘Lửa thiêng’ của Huy Cận, là một bài thơ đặc biệt và tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới, đặt dấu ấn sâu sắc vào phong cách thơ của ông và của nhiều nhà thơ khác cùng thời. Bài thơ lấy cảm hứng từ sông Hồng mênh mông, kết hợp với lời thơ và hình ảnh cổ điển. Qua đó, Huy Cận tả rõ không gian vắng vẻ của phong cảnh thiên nhiên. Bức tranh thơ lộ diện tình đời và tình yêu quê hương đặc biệt sâu sắc, thấm đẫm nỗi buồn.

Bằng nhan đề ‘Tràng giang’, chúng ta cảm nhận được nỗi lo lắng về không gian trong tâm hồn của Huy Cận. Hai từ ‘Tràng giang’, thường đọc là trường giang, được ông biến đổi thành ‘ang’, mở rộng ý nghĩa. Từ mở rộng này mang lại cảm giác mới lạ cho độc giả. ‘Tràng giang’ không chỉ là một dòng sông mà còn là ‘đại giang’, mang ý nghĩa rộng lớn, mênh mông như vũ trụ. Từ Hán Việt này kể về một không gian sâu rộng, chứa đựng hàng nghìn năm văn hóa dân tộc. Nhan đề này tổng quát, thể hiện nỗi lo lắng chung của người Việt Nam thời bấy giờ.

Những bài văn phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ ‘Tràng giang’ đều rất đáng đọc

Từ lời đề ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài’, chúng ta lập tức bước vào bối cảnh sáng tác của tác phẩm. Điều này định hình cách hiểu về nội dung và cảm xúc chính của bài thơ. Tác phẩm mô tả về không gian thiên nhiên vô cùng rộng lớn, như một phần của vũ trụ, bao gồm bầu trời bao la, dòng chảy vô tận của sông nước, và khoảng không cao rộng giữa trời và đất. Từ những đặc điểm này, chúng ta cảm nhận được những nỗi nhớ bâng khuâng, nỗi hoang mang và lạc lõng giữa không gian thiên nhiên vô tận của một tâm hồn trữ tình lẻ loi.

‘Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.’

Như đã từng Nguyễn Du viết trong ‘Truyện Kiều’: ‘Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu /
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’. Thơ của Huy Cận cũng không khác. Mỗi câu thơ của ông đều chứa đựng một cảnh sắc, và mỗi cảnh sắc đó đều rơi vào một tâm trạng buồn man mác. ‘Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp’, miêu tả những con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông rộng lớn, đầy nỗi buồn vô tận. Hình ảnh thuyền trên dòng tràng giang mang theo dấu hiệu của sự sống, không chỉ là một phần của cảnh vật yên bình. Thuyền thường được coi là biểu tượng của sự sinh động, và trong ‘Tràng giang’, hình ảnh này gợi lên sự chia ly, tương phản với truyền thống cổ điển. Cuối cùng, câu thơ ‘Củi một cành khô lạc mấy dòng’ là biểu tượng cho sự khô héo, cô đơn của cuộc sống trên dòng sông cuộc đời.

‘Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.’

Trong khổ thơ đầu tiên, nhà thơ mô tả một không gian rộng lớn, hoang vắng, nhưng trong khổ thơ thứ hai, ông tập trung vào cảnh hoang vắng trên dòng sông. Hai từ ‘lơ thơ’, ‘đìu hiu’ kết hợp với tu từ nhân hóa nhấn mạnh nỗi buồn, khi một không gian rộng lớn chỉ có vài cồn cát, vài cơn gió. ‘Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều’ thể hiện sự cô đơn giữa cảnh vật, đặc biệt trong một làng quê hoang tàn. ‘Nắng xuống, trời lên sâu chót vót’ làm cho không gian trở nên vô cùng sâu rộng, khiến con người càng cảm thấy cô đơn. Hình ảnh ‘Sông dài, trời rộng, bến cô liêu’ thể hiện sự mênh mang của cảnh vật và nỗi cô đơn của con người.

‘Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.’

‘Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng’ ẩn chứa thân phận của mỗi người, trôi dạt trên dòng sông cuộc đời. ‘Mênh mông’, ‘lặng lẽ’ thể hiện sự hoang vắng của cảnh vật và sự cô đơn của con người, khi không có chuyến đò nào, không cầu gợi lên niềm thân mật, chỉ có bờ xanh và bãi vàng rộng lớn. Con người trở nên nhỏ bé và cô đơn giữa cảnh vật mênh mông.

‘Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.’

Nhìn xa xăm, Huy Cận ngẩn ngơ nhìn bầu trời, nơi chỉ thấy mây và núi ‘mây cao đùn núi bạc’, tạo nên khung cảnh hùng vĩ, rộng lớn. Một cánh chim nhỏ nghiêng cánh, bóng chiều sa, gợi lại hình ảnh ước lệ tượng trưng trong thi ca cổ điển. Huy Cận nhớ về quê hương, biết rằng đây không chỉ là nỗi nhớ của một người con xa quê, mà còn là nỗi niềm của một thời đại, một thế hệ luôn mang nỗi nhớ về quê hương, thiếu quê hương. Không cần khói hoàng hôn, đây là nỗi buồn vong quốc sâu sắc trước thời cuộc rối ren.

‘Tràng giang’ là bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách và hồn thơ của Huy Cận. Ông được mô tả là ‘con một người mẹ hay sầu’, có lẽ vì thế ông luôn mang một tâm hồn lẻ loi, luôn sầu, sầu cho thế nhân, sầu cho quê hương, và sầu cho chính bản thân. Thơ của Huy Cận gói gọn trong một từ ‘buồn’ mênh mông, kết hợp với nỗi ám ảnh không gian lạ lùng, tạo nên một hồn thơ riêng biệt, khác biệt trong phong trào Thơ Mới 1932-1945.

“””—HẾT”””–

‘Tràng giang’ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách và hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Để hiểu rõ hơn về bài thơ, có thể tham khảo thêm các phân tích và bình giảng về ‘Tràng giang’.

Hãy tham khảo bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ để hiểu rõ hơn về bài thơ và cách làm văn phân tích của Hàn Mặc Tử.

0 ( 0 bình chọn )

Nguyễn Tất Thành

https://truongnguyentatthanh.edu.vn
Nguyễn Tất Thành - Nơi chia sẻ kiến thức chuyên sâu trong các lĩnh vực từ giáo dục, văn hóa đến kỹ năng phát triển bản thân. Với các bài viết chất lượng, Nguyễn Tất Thành cung cấp nền tảng vững chắc cho người đọc muốn nâng cao hiểu biết và kỹ năng. Khám phá thông tin hữu ích và học hỏi từ những chuyên gia đầu ngành để hoàn thiện bản thân mỗi ngày.

Ý kiến bạn đọc (0)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

Bài viết mới

Xem thêm