gấu túi | |
---|---|
Ngày hóa thạch: 0,7–0 triệu năm trước
TiềnЄ Є ồ S D C P T J K PG N Pleistocen – hiện tại |
|
Tình trạng bảo tồn | |
Dễ bị tổn thương (IUCN 3.1) |
|
Phân loại khoa học | |
Giới tính (regnum) | giới động vật |
ngành | hợp âm |
lớp học | động vật có vú |
Lớp cơ sở hạ tầng | thú có túi |
thiết lập (ordo) | hai răng |
Phân khu (subordo) | Vombatiformes |
gia đình | Họ Phascolarctidae |
Chi (chi) | Phascolarctos |
Giống loài | P. cinereus |
Danh pháp hai phần | |
Phascolarctos cinereus(Goldfuss, 1817) | |
Phân bố (bản địa màu đỏ, du nhập màu tím) |
|
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Gấu Koalahay còn gọi là koala (tên khoa học: Phascolarctos cinereus), là loài thú có túi ăn cỏ sống chủ yếu ở Australia. Đây là loài còn sống duy nhất trong họ Phascolarctidae và là họ hàng gần nhất của dạ con. Gấu túi phân bố dọc theo bờ biển phía đông và phía nam của hòn đảo chính, bao gồm Queensland, New South Wales, Victoria và Nam Úc. Chúng có chiều dài cơ thể khoảng 60–85 cm và khối lượng 4–15 kg. Bộ lông của chúng có nhiều màu từ xám bạc đến nâu sô cô la. Gấu túi ở phía bắc thường nhỏ hơn và có màu sắc tươi sáng hơn so với gấu túi ở phía nam. Những quần thể này có thể thuộc về các phân loài khác nhau, mặc dù điều này chưa được công nhận.
Phân loại và tiến hóa
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Cây phát sinh loài Diprotodontia |
Năm 1816, nhà động vật học người Pháp Henri Marie Ducrotay de Blainville đã đặt tên cho chi Koala là Phascolarctos, nhưng ông chưa đặt tên loài ngay cho nó. Đến năm 1819, nhà động vật học người Đức Georg August Goldfuss đã đưa ra danh pháp gồm hai phần Lipurus cinereus. Vì tên Phascolarctos được công bố đầu tiên nên theo quy định của Ủy ban Quốc tế về Danh pháp Động vật học (ICZN) nên tên này được công nhận là tên chính thức. Năm 1820, nhà tự nhiên học người Pháp Anselme Gaëtan Desmarest đề xuất cái tên Phascolartos fuscus cho các cá thể màu nâu, lập luận rằng chúng là một loài khác với các cá thể màu xám. Các tên khác được đề xuất bởi các tác giả châu Âu bao gồm Marodactylus cinereus bởi Goldfuss năm 1820, P. flindersii bởi René Primevère Bài giảng năm 1827, và P. koala bởi John Edward Gray năm 1827.
Quá trình sinh sản
Gấu túi cái đến tuổi sinh sản vào khoảng 2 đến 3 tuổi, trong khi con đực từ 3 đến 4 tuổi. Một phụ nữ khỏe mạnh có thể sinh con hàng năm trong khoảng 12 năm. Mang thai kéo dài 35 ngày và hiếm khi sinh đôi. Giao phối thường diễn ra từ tháng 12 đến tháng 3, trùng với mùa hè ở Nam bán cầu.
Khi mới sinh ra, gấu túi không có lông, chưa mở mắt, chưa có tai và chỉ có kích thước bằng hạt đậu. Sau khi sinh, gấu túi con sẽ bò vào túi của mẹ (có thể đóng mở theo ý muốn của mẹ) và bám vào một trong hai núm vú. Trong 6 tháng đầu, gấu túi con sống trong túi mẹ, chỉ bú sữa và phát triển tai, mắt, lông. Sau đó gấu túi con bắt đầu đi ra ngoài. Vào khoảng 30 tuần tuổi, nó bắt đầu ăn một loại thức ăn nhão gọi là ‘pap’ do mẹ tiết ra. Chú gấu túi con tiếp tục sống với mẹ thêm 6 tháng nữa, trèo lên lưng mẹ, uống sữa và ăn lá cây. Sau 12 tháng, gấu túi cái sẽ tự mình tìm kiếm thức ăn ở khu vực xung quanh, trong khi gấu túi đực sẽ ở với mẹ cho đến khi được 2-3 tuổi.
Hình ảnh
Xem thêm : Bật mí nguồn gốc và ý nghĩa của cây thông mùa Giáng Sinh
Gấu Koala cái
Gấu Koala đực
Thực đơn lá
Phần đầu tiên
Nội dung được đội ngũ Nguyễn Tất Thành phát triển với mục đích chăm sóc khách hàng và chỉ mang tính khuyến khích trải nghiệm du lịch, chúng tôi không chịu trách nhiệm và không đưa ra lời khuyên cho các mục đích khác.
Nếu bạn thấy bài viết này không phù hợp hoặc sai sót, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email [email protected]
Nguồn: https://truongnguyentatthanh.edu.vn
Danh mục: Blog
Ý kiến bạn đọc (0)